23 tháng 11, 2009

Buổi lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh cụ Nguyễn Đức Cần

Sáng ngày chủ nhật 22 tháng 11 năm 2009 tại hội trường Học viện hành chính quốc gia Hà Nội , câu lạc bộ tiềm năng con người đã tổ chức buổi Lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nhà ngoại cảm chữa bệnh Nguyễn Đức Cần ( 1909 – 2009 )

Chúng tôi xin giới thiệu bài phát biểu của ông Nguyễn Tài Đức trong buổi lễ kỷ niệm :

Rạng danh hai chữ Đại Yên


Kính thưa Ban lãnh đạo Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người
Kính thưa quý vị đại biểu

Trong lịch sử hơn 4 nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, thời nào cũng có những bậc kỳ tài ra đời để giúp dân, giúp nước.

Trong thế kỷ thứ 20 vừa qua , đất nước ta cũng xuất hiện những con người như vậy và hôm nay chúng tôi muốn nói đến một con người đặc biệt. Người đã cống hiến suốt đời mình với khả năng siêu thường cho sức khỏe và hạnh phúc của nhiều người.

Đó là Cụ Nguyễn Đức Cần ở làng Đại Yên- Hà Nội.

Vinh dự trong đời tôi (Lưu Huy Chao)

Sáng ngày 22 tháng 11 năm 2009, Câu lạc bộ tiềm năng con người tổ chức buổi họp Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Cụ Nguyễn Đức Cần ( 1909 - 2009), tại Học viện hành chính quốc gia Hà Nội.
Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bài phát biểu của Đại tá Lưu Huy Chao - Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân tại buổi Lễ kỷ niệm .




Kính thưa Giáo sư – Tiến sỹ Đào Vọng Đức cùng các đồng chí cán bộ Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người.

Kính thưa các vị khách quý.

Kính thưa thân nhân gia đình cụ và các bệnh nhân của cụ,

Tôi là Lưu Huy Chao sinh năm 1933 , nguyên là Đại tá , phi công MIC 17, được nhà nước tuyên dương phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam ngày 22 tháng 12 năm 1969.

Tôi đã xuất kích chiến đấu 105 lần, gặp địch 32 lần, đánh 19 trận trên không, 7 lần nổ súng và đã bắn rơi 6 máy bay của không lực Hoa Kỳ . Chỉ huy yểm hộ đồng đội bắn rơi 18 chiếc khác..

Vinh dự lớn nhất là tôi đã được gặp Bác Hồ hai lần , được chụp ảnh chung với Bác và được tặng 7 huy hiệu của Người .Tôi cũng được Nhà nước và nhân dân tặng rất nhiều huân huy chương , kỷ niệm chương .

Tôi đã trúng tuyển vào phi công vào đầu năm 1956 . Sau 8 năm học tập tại Trung Quốc, tháng 4 năm 1965 tôi cùng đồng đội trở về tổ quốc tham gia chiến đấu cho đến kết thúc cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước .
Vinh dự lần thứ hai trong đời tôi là được cụ Nguyễn Đức Cần cứu chữa khỏi hai lần.

Lần đầu vào năm 1979 , khi tôi vừa ở chiến trường Cam Pu Chia về . Tôi bị mất ngủ liên tục, không thể nào ngủ được trong hơn hai năm .Tôi đã đến các bệnh viện trong quân đội như : Bệnh viện 7 ở Đà Nẵng, bệnh viện Sài Gòn , nhất là Viện quân y 108 . Có thời kỳ tôi nằm ở đó đến 4 tháng mà bệnh cũng chưa khỏi.
Có một anh bạn nói với tôi là đến nhà cụ Nguyễn Đức Cần , tôi nghĩ là nếu nằm ở Viện 108 chắc cũng khỏi thôi, nhưng thời gian quá lâu rồi , mà lúc đó tôi vẫn đang bay.

Tôi lên lấy giấy xin ra viện . Tôi đi đến nhà cụ Trưởng Cần .

Lần đầu tiên gặp cụ , tôi thấy cụ là một con người cũng có vẻ khác thường . Khi tôi gặp cụ , tôi cảm động lắm, không biết nói gì cả .

Tôi nói : Thưa cụ , cháu mỗi đêm chỉ ngủ được một đến hai giờ thôi, mà cũng đến hơn hai năm nay rồi.
Cụ bảo : Thôi được , chú cứ ngồi đấy . Rồi cụ lấy một tờ giấy nhỏ như bao thuốc lá thôi và cụ viết chữ vào đấy, rồi cụ đưa cho tôi . Cụ dặn tôi trước khi ngủ thì đặt tờ giấy lên trán . Tôi về tôi theo lời dặn của cụ và tôi cũng làm như thế .

Độ được một tuần lễ , mỗi đêm tôi đã ngủ được từ ba đến năm tiếng đồng hồ . Tôi mừng lắm và tiếp tục chỉ độ chừng mươi mười năm ngày nữa thì tôi đã ngủ được bình thường và sức khỏe hồi phục.

Sau hai tháng đi an dưỡng nghỉ ngơi , tôi tiếp tục được bay , đến khi 55 tuổi tôi mới thôi bay.

Cuộc đời của một phi công phản lực , tôi đã bay được 28 năm . Thật là hiếm có . Vì thời trước đây chúng tôi có nhiều khó khăn thiếu thốn và gian khổ lắm . Nhưng lớp phi công bây giờ , bay được nhiều nhất cũng chỉ được 25 năm thôi .

Lần thứ hai tôi được cụ chữa , là tôi bị đâm xe ngã bị rạn xương vai . Tôi nằm Viện 108 một tuần , tôi thấy đau quá . Tôi chợt nhớ lại là phải đến nhà cụ Trưởng Cần .
Tôi lên xin phép bệnh viện để về . Tôi gọi xe để lên thẳng nhà cụ . Cụ vẫn còn nhớ tôi . Khi thấy tôi , cụ bảo : Anh đến đấy à , có việc gì đấy .Tôi cảm động quá.

Lái xe dìu tôi lên nhà , tôi thưa với cụ là tôi bị xe nó đâm , phải nằm Viện 108 hơn một tuần không đi lại được . Xin cụ giúp cho .

Lúc đó bệnh nhân rất đông , cụ bảo : Thôi được rồi . Cụ viết vào tờ giấy và đưa cho tôi , dặn để vào chỗ đau. Thế rồi tôi về.

Đầu tiên độ bảy ngày thôi , tôi thấy đỡ và tôi đứng dậy đi được .Chỉ sau mươi ngày thì tôi trở về bình thường và khỏi hẳn .Tôi tiếp tục bay hồi phục và sau hai năm tôi mới nghỉ bay .
Tôi thấy cụ chữa tài thật , riêng tôi cảm thấy như vậy. Và gia đình tôi rất vinh dự là đã được chụp ảnh chung cùng với cụ .

Kính thưa quý vị khách quý

Vợ chồng tôi rất vinh dự được Trung tâm tiềm năng con người , mời đến dự buổi lễ trọng thể này.Cho tôi được phát biểu những điều sự thực mà tôi vừa nói lên.

Tôi thay mặt gia đình cảm ơn Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người . Cảm ơn cụ Trưởng Cần và gia đình.

Kính chúc Trung tâm và các vị khách quý có một sức khỏe dồi dào , tiếp tục cống hiến trí tuệ , sức lực để góp phần xây dựng nghành khoa học mới này cho đất nước , cho dân tộc . Tiếp tục thừa kế truyền thống của Cụ Nguyễn Đức Cần để lại cho chúng ta .

Xin kính chào Trung tâm.
Kính chúc quý vị sức khỏe và hạnh phúc .


20 tháng 11, 2009

Người Thầy của chúng ta

Nhà giáo Vũ Văn Ngọc
Hôm nay, nhân dịp ngày nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11 năm 1996.Chúng tôi tới thăm ông Vũ Văn Ngọc. Ông Ngọc nguyên là một thầy giáo dạy văn tại trường cấp 3 Chu Văn An, Hà Nội. Nay đã về nghỉ hưu ở tại phố Thụy Khuê-Hà Nội. 

Ông Vũ Văn Ngọc là người đã chấp bút và thay mặt cho bệnh nhân đọc bài điếu văn trong lễ tang cụ Nguyễn Đức Cần.

Chúng tôi xin phép được hỏi chuyện Nhà giáo Vũ Văn Ngọc

-Thưa ông, xin ông cho biết,nhân duyên nào mà ông được biết đến cụ? 


4 tháng 9, 2009

Không thể nào quên được ơn Cụ

Lời dẫn: Ngày 17 tháng 6 năm 1982, phóng viên Báo Sài Gòn Giải Phóng – Minh Đăng Khánh đã đến thăm cụ Nguyễn Đức Cần ở làng Đại Yên, quận Ba Đình - Hà Nội, xin phép cụ cho được phỏng vấn trực tiếp về phương pháp chữa bệnh đặc biệt không dùng thuốc của cụ và phỏng vấn một số bệnh nhân. 
Chúng tôi xin trích đoạn Phóng viên Minh Đăng Khánh hỏi chuyện Ông Vũ Như Lộc – Một nhà giáo.

26 tháng 7, 2009

Người luôn vẫn ở trong trái tim chúng ta

Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Cụ Nguyễn Đức Cần – Một người Thầy chữa bệnh không dùng thuốc ( 1909-2009) . Ngày 25 tháng 7 năm 2009 ( tức ngày mùng 4 tháng 6 năm Kỷ Sửu) tại cánh đồng lúa làng Thanh Mai, huyện Thanh Oai – Hà Nội, Bộ môn Thông tin dự báo ( do Ông Nguyễn Phúc Giác Hải làm chủ nhiệm )- Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người đã cùng thân nhân trong gia đình Cụ ,tổ chức Lễ Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Cụ.


Từ sáng sớm hàng trăm bà con cô bác , những bệnh nhân, những người chịu ơn, những người biết đến danh cụ, đã tề tựu về đây- nơi Cụ đang an nghỉ để tưởng niệm và tri ân Cụ.

Chúng tôi xin giới thiệu bài phát biểu của ông Nguyễn Phúc Giác Hải –Chủ nhiệm Bộ môn thông tin dự báo, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người, trong buổi Lễ Kỷ niệm:

6 tháng 6, 2009

Cụ chữa khỏi bệnh ung thư thập tử nhất sinh

Chúng tôi xin trích dẫn một bức thư xúc động về tấm lòng thương bệnh nhân nghèo của cụ, một ví dụ rất điển hình của việc cụ chữa bệnh không nhận tiền. Bức thư được viết bởi của một người là bố của một bệnh nhân bị ung thư được cụ chữa khỏi trong cơ thập tử nhất sinh.
-----------------------------------------------------------
Hà Nội ngày 27 tháng 6 năm 1973

Kính gửi cụ Nguyễn Đức Cần

Thưa cụ

Tôi là Đinh Văn Hợp ở số nhà 59 Bãi Phúc Tân-Hà Nội, tôi có một người con bị ung thư. Từ đầu năm 1972 cháu điều trị ở bệnh viện K bằng tia điện la de. Cháu về được 6 tháng lại bị đau ở cạnh sườn, vào bệnh viện, các bác sỹ nói cháu bị di căn phải tia điện lại. Lúc đó bụng cháu bị chướng, khó thở, ăn không tiêu và bụng mỗi ngày càng to lên. Đến ngày 9 tháng 6 năm 1973, cháu phải cấp cứu, bác sỹ khám xong bảo không chữa được nữa, chỉ chờ ngày một ngày hai là đi, nếu cháu có thèm gì thì cứ cho cháu ăn.

Xung quanh sự kiện ngày 30-4-1974

Nhân dịp kỷ niệm 15 năm ngày mất của cụ Nguyễn Đức Cần 1983-1998, một người thầy chữa bệnh không dùng thuốc, một vị ân nhân của hàng ngàn người bệnh. Với truyền thống và đạo nghĩa uống nước nhớ mguồn. Hôm nay chúng tôi họp mặt tại Hà Nội cùng nhau trao đổi những câu chuyện về việc chữa bệnh của cụ.
ông Nguyễn Phúc Giác Hải chụp ảnh với cụ Nguyễn Đức Cần
Chúng xin trân trọng giới thiệu ông Nguyễn Phúc Giác Hải, nhà nghiên cứu sinh vật học của Viện khoa học Việt Nam, một nhân chứng đã từng được nghiên cứu và làm việc gần bên cụ Nguyễn Đức Cần. Trong buổi nói chuyện thân mật, ông Nguyễn Phúc Giác Hải cũng chia sẽ cụ thể hơn sự kiện ngày 30-4-1074, nhà nước chính thức tổ chức quay phim chụp ảnh cụ chữa bệnh, ngày đánh dấu bước đi đầu tiên của khoa học ngoại cảm ở nước ta.

5 tháng 6, 2009

Đời đời nhớ ơn cụ

Thị xã Sơn Tây ngày 20 tháng 5-1974

Kính gửi : Cụ Nguyễn Đức Cần

Kính thưa Cụ 

Cháu là Trương Quang Tài sinh ngày 20 tháng 12- 1958, hiện ở phố Phùng Khắc Khoan, thị xã Sơn Tây. Hôm nay cháu vô cùng sung sướng viết lá thư này với tất cả tấm lòng thành kính của cháu gửi lên Cụ .

Thưa Cụ

Nhờ bàn tay đức độ của Người, Người đã cứu sống cho cháu và cứu sống cả cho gia đình cháu thoát khỏi cơn bệnh hiểm nghèo đã hành hạ cháu gần 2 năm trời nay. 

4 tháng 6, 2009

Nơi đây Đại Yên

Kính thưa Cụ Nguyễn Đức Cần

Con rất sung sướng và hồi tưởng lại 14 năm qua con được biết và được hầu cụ. Hôm nay, con xin phép viết lên đây để luôn luôn tưởng nhớ và cũng là biết ơn cho đến trọn đời.

Thưa Cụ

Năm 1954 được mẹ con đưa lên hầu cụ, nhưng lúc đó con còn tuổi thanh niên, tuổi đời chưa hiểu, còn bán tín bán nghi. Đến năm 1957 con xin phép bố mẹ cho đi theo anh rể buôn bè trên rừng núi xa xôi, những nơi con chưa từng bước chân tới, đúng là nơi rừng thiêng nước độc. Không may cho con, mắc phải bệnh sốt rét ngã nước. Trở về nhà cứ cách một ngày lại lên cơn sốt, hết sốt rét lại sốt nóng đến 40 độ, sau đó lai buốt đầu, mỗi cơn sốt kéo dài đến nửa ngày, cứ thế kéo dài suốt 3 tháng liền. Hết tiêm thuốc lại uống k‎‎ý ninh vàng cả mắt, hết thuốc tây lại thuốc ta rồi quay ra cúng lễ, đều cũng không khỏi. Sau có người mách là đào giun đất mà nuốt thì sẽ khỏi, con sợ quá không dám nuốt, lúc bấy giờ người con chỉ còn cái xương bọc cái da, phải chống gậy mới đi nổi. Con tưởng như không thể sống được nữa. Khi mẹ con lên nói với cụ và cụ nhận lời giúp đỡ, thế là từ đó bệnh bớt dần và ít lâu sau con khỏi hẳn, sức khỏe được hồi phục. Con tự nghĩ đúng là cụ đã cải tử hoàn sinh cho con. 

3 tháng 6, 2009

Cải tử hoàn sinh

Hà Nội ngày 1 tháng 4 năm 1974 

Kính thưa ông

Cháu rất sung sướng là đã được sống lại, nên mới có ngày hôm nay được ngồi viết thư
Xin ông cho phép cháu được kính chúc ông mạnh khoẻ mãi mãi để cứu nhân độ thế.

Cách đây mấy tháng cháu chỉ chờ chết thôi. Mặt thì sưng to như cái thớt, uống nước cháo cũng không uống được, chỉ còn 32 cân thôi.

2 tháng 6, 2009

Cụ đã cứu vớt

Kính gửi : Cụ Nguyễn Đức Cần 

Kính thưa cụ

Con xin kính chúc cụ mạnh khoẻ sống lâu để cụ ra tay cứu vớt được thật nhiều người ốm đau nghèo khổ.

Thưa cụ

Vợ con sinh mười bận, lần cuối cùng bị mổ vì sinh hai cháu. Sau khi mổ là bị bị ốm yếu, ăn không được, ngủ không yên gần 3 năm trời.. chỉ còn da bọc xương. Đến đầu tháng 10 năm ngoái bị nôn ra máu, một ngày ra tới bốn bát máu. Thuốc men chữa chạy đã khá tốn công, tốn của, nhưng người cứ khô đét mệt dần.

1 tháng 6, 2009

Con là một bác sỹ

Hà Nội ngày 14 tháng 11 năm 1982

Kính gửi cụ Nguyễn Đức Cần 

Thưa cụ 

Con tên là Hoàng Thị Phúc ở số nhà 25k phố Phan Đình Phùng –Hà Nội. Con công tác từ năm 1945 trong quân đội suốt thời kỳ chiến tranh chống Pháp. Sau con về làm trong cơ quan y tế, là một bác sỹ nội khoa. Con có bệnh tim mạch, năm 1970 con đã có cơn đau tim. Do là bác sỹ nên con giữ gìn sức khoẻ, khi những cơn đau tim con đều ngậm thuốc thì cơn đau đều giảm.

Năm 1978 con phải đi nằm điều tri tại bệnh viện E và thường xuyên phải cấp cứu, cơ thể bị suy sụp nhiều nên phải nghỉ hưu cuối năm 1979. 

9 tháng 3, 2009

Giữ lấy chữ Đức

Nhà cụ khi xưa, số 86 làng Đại Yên, Hà Nội
Hôm nay , một ngày đầu xuân năm Kỷ Mão 1999, chúng tôi những người làm tư liệu về Cụ, đến làng Đại Yên thăm và hỏi chuyện một người cháu của Cụ Nguyễn Đức Cần.

- Xin chào anh, xin anh cho biết quý danh ?
- Tôi là Nguyễn Đức Phú , sinh năm Tân Mão 1951.

- Thưa anh, xin anh cho biết quan hệ của anh với cụ Nguyễn Đức Cần là như thế nào ?
- Ông cụ Cần là bác họ tôi. Cụ thân sinh ra ông cụ Cần và ông nội tôi là hai anh em ruột.

11 tháng 1, 2009

GS. Nguyễn Hoàng Phương - Nhà khoa học uyên thâm, một trái tim nhân hậu

GS. Nguyễn Hoàng Phương từ giã chúng ta để đi vào cõi vĩnh hằng (24/3/2004), nhưng để hiểu và đánh giá đúng về ông, về những công trình của ông, chắc chắn còn đòi hỏi nhiều thời gian, nhiều nghiên cứu kiểm nghiệm.

GS. Nguyễn Hoàng Phương sinh năm 1927. Ông từng là chiến sĩ biệt động hoạt động ở thành phố Huế. Năm 1949, được cử đi đào tạo khoa học cơ bản và sau đó tiếp tục ở lại giảng dạy ở Khu học xá (Nam Ninh, Trung Quốc). Khi tiếp quản Thủ đô, ông về dạy ở Trường Đại học Sư phạm, và vào tháng 9.1956, khi Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường Đại học Khoa học Tự nhiên thuộc ĐHQGHN) được thành lập, ông đã có mặt ngay từ những ngày đầu tiên với tư cách người thầy. Lúc đầu, ông được cử làm Tổ trưởng Bộ môn Vật lý của Khoa Tự nhiên và trực tiếp giảng dạy các môn Toán cao cấp và Vật lý. Sau khi Khoa Tự nhiên tách thành các khoa Toán, Lý, Hóa..., ông được cử làm Chủ nhiệm Khoa Vật lý.

Bên cạnh các tên tuổi bậc thầy về vật lý như GS. Ngụy Như Kontum, ông được coi là con chim đầu đàn của ngành Vật lý Việt Nam, là thầy của hầu hết những nhà vật lý tiếng tăm. Một người thầy hào hoa, uyên bác, đầy nhiệt huyết và rất yêu thương sinh viên. Ông còn là một nhà giáo có tài năng sư phạm lỗi lạc của nước ta. Những vấn đề toán học khô khan, những lĩnh vực lắt léo của Vật lý lý thuyết, qua những lời giảng giải khúc triết của ông, chúng trở nên sống động, dễ hiểu và vô cùng dễ nhớ. Chỉ riêng những vấn đề ông đã viết ra, in rồi hoặc chưa in, với mỗi quyển trên dưới một ngàn trang, cũng đáng để cho người đời, nhất là những người đã từng biết những khó khăn khi cầm bút, phải nghiêng mình thán phục.

Sự ham hiểu biết và thú say mê làm việc là những tố chất ưu việt đã được ông gìn giữ cho đến những "giây phút cuối cùng của cuộc đời", theo đúng nghĩa đen của cụm từ này. Trong những năm ở số 16, Hàng Chuối, không mấy ai trong ngành toán lý chúng ta chưa được nhìn thấy ông suốt ngày miệt mài bên chiếc máy chữ cũ kỹ đặt bên cửa sổ. Những quyển sách ông đã đọc qua, không mấy trang không có bút tích của ông để lại. Ông chăm chú lắng nghe những xêmina về Toán - Lý cho dù người trình bày chỉ vào loại học trò nhỏ bé của mình. Mọi thông tin khi lọt vào đầu ông, chúng đều được xử lý, sắp xếp theo cách tư duy của ông, cho nên, mọi điều ông viết ra, dù là những điều ai ai cũng biết, nhưng chúng đều có những sắc thái rất riêng chỉ mình ông mới có.

Ngày 22.3, một ngày trước khi đi xa, ông còn nhờ một người học trò cũ của mình photo quyển "Lý thuyết phạm trù" của B. Michell để ông nghiền ngẫm. Ông muốn tìm trong lĩnh vực trừu tượng nhất của toán học những phương cách để ông có thể diễn đạt được các đặc tính tinh tế nhất của thế giới vật chất. Ngày hôm sau, chỉ mấy giờ trước lúc ra đi, khi nhận được chương đầu tiên, ông còn phàn nàn sao không photo ngay cho ông cả quyển.

Hình ảnh ông với mái tóc dài bạc trắng, với đôi mắt thông minh, với nét mặt đôn hậu hóm hỉnh, với dáng đi nhanh nhẹn không hề mang dấu vết của tuổi tác, với cách bỡn cợt với bệnh tật của chính mình... vẫn còn in đậm trong tâm trí của bạn bè, học trò và cả những người chỉ biết ông qua một lần được nghe ông nói chuyện.

Ông là một trong số ít người đoán trước được vận mệnh của riêng mình. Ông nói ra điều đó một cách rất hồn nhiên, ông hoạch định từng chi tiết cho lễ tang của mình. Việc ra đi được ông hiểu đơn giản như việc tìm về nhà sau một cuộc viễn du mệt mỏi.

 Những nghiên cứu khoa học của ông có thể tạm phân làm ba lĩnh vực: Toán - Lý, Trường sinh họcTâm linh.

Năm 1959, trong khi nền giáo dục đại học của chúng ta mới chập chững những bước đầu tiên, cơ sở vật chất, sách vở còn rất thiếu thốn, với cương vị coi sóc Khoa Vật lý, ông đã nỗ lực hết mình, vừa tạo điều kiện để học trò học thật tốt, vừa tự mình mày mò nghiên cứu khoa học để làm gương cho thế hệ đàn em. Ông đã lập nên nhóm nghiên cứu Vật lý lý thuyết, gồm những người tâm huyết từ các cơ sở nghiên cứu khác nhau nhưng có chung một niềm đam mê Vật lý. Nhóm này hoạt động khá đều đặn và có hiệu quả. Các thành viên trong nhóm, nhiều người đã thành danh, là những phó giáo sư, giáo sư, tiến sĩ, tiến sĩ khoa học, viện sĩ, những trụ cột vững chắc cho các tổ chức vật lý của đất nước chúng ta.

Cũng trong thời kỳ này, ông đã có phát kiến trong lĩnh vực nghiên cứu vật lý cơ bản. Ông đề xuất một mô hình, trong đó không thời gian vật lý được mở rộng từ 4 thành 6 chiều và nhờ các chiều phụ, ông đã có những kiến giải rất có sức thuyết phục về đặc trưng nội tại của các hạt cơ bản. Phát kiến này đã giúp ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ. Luận án: "Vật chất trong không gian sáu chiều" được ông viết một mình, và là luận án tiến sĩ đầu tiên về Vật lý của nước Việt Nam mới. Luận án này được ông bảo vệ thành công ở Liên Xô.

Ngoài giảng dạy và lãnh đạo Khoa, ông còn dành nhiều thời gian để viết sách và đã có rất nhiều sách chuyên khảo có giá trị. Quyển "Lý thuyết nhóm và ứng dụng vào Vật lý học Lượng tử", in khổ rộng với hơn 500 trang, hiện vẫn là quyển chuyên khảo đầy đủ duy nhất về lĩnh vực này ở Việt Nam. Quyển "Nhập môn Cơ học lượng tử - cơ sở và phương pháp (Tích hợp Toán - Lý - Hóa)", với gần 800 trang in khổ lớn, cũng là một quyển sách tham khảo rất có giá trị cho sinh viên các trường đại học. Ông cũng có quyển sách viết bằng ngôn ngữ phổ thông về A. Einstein, một quyển sách rất truyền cảm được độc giả đủ mọi lứa tuổi đánh giá cao và được tái bản nhiều lần, ngay cả sau khi ông đã mất.

Một lĩnh vực rất mới mẻ, không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả trên thế giới, đó là lĩnh vực Trường sinh học, cũng được ông dành cho nhiều tâm huyết. Đây là lĩnh vực rất kỳ bí, còn xa lạ với các công cụ khoa học Toán - Lý đương thời. Hiện nay, khoa học vẫn đang kiên nhẫn xem xét và chỉ có trong tương lai xa mới hy vọng có lời phán quyết đúng đắn.

Vào những năm khó khăn của thời bao cấp, khi người bạn đời thân thiết, hiểu ông, yêu ông và tận tụy vì ông đột ngột qua đời, ông rơi vào trạng thái hẫng hụt. Các cố gắng bấu víu vào cuộc đời thường đều không mang lại cho ông sự yên lành cần thiết về cả tinh thần lẫn vật chất. Bạn bè, đồng nghiệp đã khuyên ông đi chuyên gia châu Phi, bởi vì, lúc bấy giờ, đây là giải pháp duy nhất phù hợp với khả năng hiểu biết cuộc sống đời thường của ông. Ông đã nghe, đã làm đủ mọi thủ tục cần thiết và chỉ chờ ngày xuất phát. Nhưng tiếc thay, đến phút cuối ông đột ngột thay đổi quyết định. Lý do duy nhất kéo giữ ông ở lại, đó là, muốn dùng khả năng ngoại cảm của một số người để tìm tòi tài nguyên cho đất nước.

Đây là những năm tháng khó khăn nhất của cuộc đời ông. Khó khăn đó không chỉ vì vật chất thiếu thốn, mà ở ngay cả lĩnh vực tinh thần. Như đã nói ở trên, tiềm năng ngoại cảm của con người luôn là một lĩnh vực bí hiểm và rất dễ lợi dụng. Sự thơ ngây của ông trong cuộc sống đời thường đã mang lại cho ông không ít những hệ lụy. Đánh giá đúng về những đóng góp của ông trong lĩnh vực này còn cần có thời gian. Nhưng một người bạn cũ tâm huyết của ông đã nhận xét, nếu trong tương lai, tiềm năng ngoại cảm con người được chứng minh là đúng đắn, vị trí của ông trong lĩnh vực này sẽ rất lớn.

Nếu lĩnh vực Trường sinh học tuy kỳ lạ nhưng phần nào còn có thể nhận thức được, thì lĩnh vực tâm linh, lĩnh vực mà ông say mê cho đến cuối đời, vẫn còn là bí ẩn và khó hiểu hơn nhiều. Là một người am tường đại số, ông luôn mong muốn tìm ra những quy luật chung nhất không chỉ của thế giới tự nhiên mà còn của thế giới tâm linh, tức là thế giới ý thức của con người.

Một trong những di sản vĩ đại của người xưa trong lĩnh vực này là "Kinh dịch". Ông đã nhìn thấy trong "Kinh dịch" quy luật chi phối xã hội và chi phối tự nhiên, thậm chí cả quy luật sản sinh ra các chủng loại người trên hành tinh của chúng ta. Khác với những người học dịch trước đây, thường chỉ dựa vào những phán xét của người xưa để luận bàn và thêm thắt, ông đọc dịch trên cơ sở liên hệ nó với quy luật của đại số học, và do đó, ông đã làm một việc chưa từng ai dám làm trừ đức Khổng Tử, đó là sắp xếp lại "Kinh dịch". Với việc tìm cỗ máy thiên cơ trong "Kinh dịch", tức là tìm ra quy luật sắp xếp thích hợp cho từng thời kỳ của 64 quẻ, ông đã chỉ ra cách dự báo có tính xác thực hơn.

Ông khẳng định rằng: "Bài toán giải mã số thứ tự các quẻ (tự quái) là một trong những bài toán hóc búa nhất, hiểm trở nhất của Dịch lý trên cả toàn cầu và toàn lịch sử loài người, mãi cho đến nay mới bắt đầu thực hiện rõ ràng, cụ thể được. Những giải mã này cho phép khôi phục lại vị trí học thuyết siêu thống nhất phổ quát nhất về nhân văn học, và hơn nữa vị trí giao lưu văn minh vũ trụ, hội nhập vũ trụ nay mai". Ông ghi chép những kết quả của mình trong một số cuốn sách: "Những cơ sở của Triết học phương Đông và Tập mờ, Đông và Tây", in bằng tiếng Anh, khổ lớn, dày 200 trang (Oriental Philosophy Fundamentals and Fuzzy Set, East and West) và cuốn "Tích hợp đa văn hóa Đông - Tây cho một chiến lược giáo dục tương lai" in khổ lớn dày tới gần 1.200 trang, với các thuật ngữ vừa cổ kính vừa huyền bí mà còn lâu mới có thể hiểu và đánh giá chính xác đúng sai. Những suy tư của ông trong những năm cuối đời được ông ghi chép thành 5 tập còn đang chờ để được xuất bản.

Với 77 năm trong "khí hồng trần", những điều ông thu được trong các lĩnh vực thuộc khoa học tự nhiên và xã hội là rất đáng khâm phục. Nó chứng tỏ ông có bộ óc siêu việt mà trình độ khoa học đương đại chưa thể có phán quyết đúng sai có tính thuyết phục.

Ngoài đời ông là một người lãng mạn, chơi ghi ta rất cừ, rất thích đàm đạo, thương người và sống rất có tình. Trong con người khoa học của ông là một trái tim nhân hậu.

Là một kẻ hậu sinh, tuy cùng nghề, nhưng tôi chưa bao giờ dám đánh giá đúng - sai những điều ông đã viết. Mấy dòng này xin được xem là những nén tâm hương kính dâng lên hương hồn ông, nhân ngày giỗ thứ hai của ông./.

Phạm Thúc Tuyền
[100 Years-VietNam National University, HaNoi]

Nguồn: Trang web kỷ niệm 100 năm của ĐH Quốc Gia Hà Nội

***************************************



***************************************

Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương và nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải là những nhà khoa học nghiên cứu phương pháp chữa bệnh của cụ Nguyễn Đức Cần từ năm 1974.

Trong buổi quay phim và ghi âm cụ Nguyễn Đức Cần chữa hai bệnh nhân đặc biệt tại Đại Yên –Hà Nội ngày 30 tháng 4 năm 1974. Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương đã phát biểu: "Cụ Nguyễn Đức Cần có một khả năng kỳ diệu và phương pháp chữa bệnh hoàn toàn mới và rất thần tình, mặc dầu chưa giải thích được, là một tồn tại khách quan,không thể phủ nhận được."

Có 2 câu chuyện về gia đình Giáo sư Hoàng Phương với cụ Nguyễn Đức Cần

I.
Vào khoảng cuối năm 1982, ông Hoàng Phương có lần phải đi công tác xa Hà Nội, không may ở nhà, vợ ông bị sốt cao phải đưa vào bệnh viện và sau khi tiêm thuốc thì vợ ông bị chết.

Sau ngày lễ tang, đêm đêm vợ ông hiện về nhà kêu khóc rằng: Vì anh đi công tác xa, không lên gặp Thầy ( cụ Cần ), nên tôi bị chết oan.

Buổi chiều hôm đó, khi cụ đang ngồi uống rượu ngoài sân, cạnh gần cây trứng gà, thì ông Hoàng Phương có lên thưa chuyện với cụ về việc trên. Cụ có hỏi lại: ”Ông là nhà khoa học mà lại tin có ma à ?”

Ông Hoàng Phương có thưa rằng: ”Thưa cụ, mong cụ giúp cho“. Cụ trả lời: ”Được” và cụ hẹn ông là sau 100 ngày, sẽ trở lại đây.

Đúng hẹn , ông Hoàng Phương lại lên gặp cụ. Cụ có cho ông một tờ đạo về hoá tại nhà và sau ngày đó ông có cho chúng tôi biết vợ ông không còn thấy hiện về nữa.

II.
Vào một ngày hè năm 1982, ông Hoàng Phương cùng một người cán bộ cao cấp lên Đại Yên gặp cụ Nguyễn Đức Cần.Hai người trình bầy với cụ về việc tập hợp một số nhà ngoại cảm để đi tìm mỏ dầu cho đất nước .Bản báo cáo kiến nghị đó được biết sẽ đưa đến tận tay ông Trường Chinh, lúc đó đang là Chủ tịch Hội đồng nhà nước.

Chúng tôi được biết nhà nước lúc đó về nguyên tắc đồng ý cho đoàn tiến hành đi tìm mỏ dầu, nhưng chỉ cho đoàn mượn ô tô, còn xăng dầu thì phải tự túc. Ông Hoàng Phương phải bán chiếc TiVi của nhà ( lúc đó là một tài sản quý giá ), để lấy tiền mua xăng dầu.

Chúng tôi biết rằng công cuộc tìm kiếm mỏ dầu, không được như sự trông đợi. Các thông tin mà các nhà ngoại cảm nhận được bị nhiễu. Hôm trước tại thực địa nhận thấy luồng khí dầu, nhưng hôm sau khi xác định lại, thì không nhận thấy,như vậy các thông tin không chính xác và việc tìm kiếm phải dừng lại cùng lúc đó ông Hoàng Phương cũng hết cả tiền.

Về sự việc này, cụ có dạy chúng tôi : "Dầu thì có đấy, nhưng chưa đến lúc tìm thấy."

10 tháng 1, 2009

Thế giới vô hình

Thế giới song song thực sự tồn tại
(Bài viết trích trong cuốn sách cuốn sách "Tích hợp đa văn hóa Đông Tây cho một chiến lược giáo dục tương lai" - Nguyễn Hoàng Phương, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội - 1996)

Nhà triết học và thông thiên học nổi tiếng C. Janarajadasa đã từng nói khái quát về các cõi giới vô hình như sau: “Đối với thế giới rộng lớn hơn và vô hình đang bao quanh chúng ta, một vấn đề mà chúng tôi đề cập đến không phải theo như lời người khác nói, mà một phần là theo các kinh nghiệm riêng và trực tiếp của chúng tôi".

Không biết là có cái gì đó đặc biệt hay không trong bộ não của chúng tôi. Nhưng một sự kiện luôn luôn thường trực đối với ý thức của chúng tôi là có tồn tại một thế giới mà mắt thường không trông thấy (được gọi là vô hình) bao quanh chúng ta ở mọi phía, đi xuyên qua, thấm vào và bao bọc mọi sự vật, một thế giới mà hết sức khó tả. Thế giới này được trông thấy không phải bằng con mắt bình thường của mỗi người. Các con mắt đó (mắt vật lý) dù mở hay nhắm lại đều không có vai trò quan trọng.

9 tháng 1, 2009

Một môn khoa học mới - Trường sinh học

Chúng tôi trân trọng giới thiệu một bài viết của Gs Nguyễn Hoàng Phương đăng trên báo Lao Động, Xuân Nhâm Tuất, 1982
Tờ báo Nhật Mainichi Daily News ( 7-5-1981) và các tờ báo Pháp Express ( 12-5-1981),Paris Match (15-5-1981) cùng đưa tin cuộc toạ đàm quan trọng ở Liên xô về trường sinh học, công bố trong tờ báo Ôgônhiôk (17-4-1981) dưới đầu đề: "Theo những quy luật chưa hề biết của tự nhiên".
Trường sinh học, đó là nội dung của một khoa học về sự sống, một khoa học đã trăn trở qua mấy nghìn năm của lịch sử nhân loại và chỉ mới có điều kiện nở ra những chiếc hoa đầu tiên ở cuối thế kỷ này những chiếc hoa hiếm hoi nhưng rất quý báu.

4 tháng 1, 2009

Cụ là mẹ là cha

Hôm nay ngày 13 tháng 12 năm 1998, chúng tôi có mặt tại xã Khương Đình,quận Thanh Xuân,thành phố Hà Nội. Xưa nơi đây gọi là xóm Hồng xã Khương Đình,huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội.
Rất may là khi chúng tôi đến thăm thì ông Nhâm đang ở nhà,bà Sở đi có việc vào trong xóm và một lát sau cũng đã trở về.
Ông Nguyễn Văn Nhâm, và bà Nguyễn Thị Sở,
tổ 3 cụm 4, phường Khương Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội.

1 tháng 1, 2009

Không tham vàng

Lời dẫn: Anh Lê Quang,trước đây là cán bộ điều vận của một công ty xây dựng ở Hà nội. Anh có cho chúng tôi biết, sở dĩ anh được biết đến cụ Nguyễn Đức Cần là do mẹ anh bị một bệnh gọi là sơ gan cổ chướng. Lúc đó bà mẹ anh đã ngoài 60 tuổi và hai lá gan bị nhiễm bệnh, bụng sưng to căng phồng như người mang thai 7 tháng. Gia đình đã đi chữa ở nhiều bệnh viện, thậm chí lên cả miền ngược để tìm thuốc, nhưng bệnh của mẹ anh cũng không thuyên giảm.