10 tháng 9, 2011

Cụ Lang Cần: Thần y hay dị nhân?

Chúng tôi xin giới thiệu một bài viết của Báo Người cao tuổi - số 957 ngày 10/9/2011, đưa tin về buổi tọa đàm khoa học về cụ:
Hàng trăm cử tọa nhiệt liệt vỗ tay đồng tình với đề xuất tôn danh Nhà văn hóa tâm linh Nguyễn Đức Cần là Thần y, là Dị nhân trong cuộc Tọa đàm khoa học lần thứ Hai về cụ, tại Hội trường Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 27-8-2011...

Cuộc tọa đàm lần thứ nhất tổ chức ngày 22-11-2009 tại Hội trường Học viện Hành chính Quốc gia nhân kỉ niệm 100 năm sinh của cụ. Cuộc họp mặt lần đầu chủ yếu là con cháu của các ông bà, cha mẹ mang ơn cụ trong, ngoài nước và các nhà nghiên cứu còn ít thông tin nên nội dung bàn thảo chỉ xoay quanh tài danh chữa bệnh của cụ. Lần này, 2 năm sau, có nhiều kiến giải, như Giáo sư, Anh hùng Lao động Vũ Khiêu nhận định: Cụ Nguyễn Đức Cần không chỉ để lại những ân tình sâu sắc trong lòng đông đảo người bệnh được cụ cứu sống mà quan trọng hơn là cụ đã để lại cho dân tộc ta sự nhận thức về sức mạnh kì lạ của tâm linh. Thành công của cụ, nếu được đi sâu tìm hiểu, có thể khẳng định tiềm năng vô tận của con người Việt Nam trước mọi thử thách của thiên tai địch họa, trước mọi sự khủng hoảng và rối ren của cả xã hội và thiên nhiên trong thời đại ngày nay.

29 tháng 7, 2011

Chuyện bây giờ mới kể: “CHIẾC MÁY BAY B52 RƠI Ở NGỌC HÀ”

Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bài tham luận của Ông Nguyễn Phúc Giác Hải Chủ nhiệm Bộ môn Thông tin – Dự báo TTNCTNCN, trong buổi tọa đàm ngày 27/8/2011

Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải phát biểu trong buổi Tọa đàm
Chiếc máy bay B52 rơi ở hồ Hữu Tiệp – Ngọc Hà, Hà Nội

Cuộc kháng chiến chống Mỹ thần thánh của nhân dân ta đã buộc phía Mỹ phải ký tắt với ta Hiệp định Paris. Tuy nhiên do phản ứng của Chính quyền miền Nam, Mỹ chưa chịu ký chính thức hiệp định này mà đòi ta phải nhượng bộ một số điều khoản, nếu không sẽ tấn công Hà Nội bằng B52. Cuộc “Điện Biên trên không” đã diễn ra trong 12 ngày đêm ở Hà Nội. Mỹ đã bị rơi hàng chục B52 bằng tên lửa phòng không của ta. Trong số những B52 bị rơi, có một chiếc rơi trên bầu trời Hà Nội. Phi công nhảy dù ra khỏi máy bay. Chiếc B52 bị gãy và một phần của nó rơi xuống hồ Hữu Tiệp ở Ngọc Hà. Trong bụng máy bay còn chứa hàng chục quả bom chưa nổ.

Cụ như một lão nông hiền hậu

Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bài tham luận trong buổi Tọa đàm ngày 27/8/2011 của Thiếu tướng-Nhà văn Hồ Phương
Thưa quý đồng chí và quý bạn,

Thiếu tướng, nhà văn Hồ Phương(phải)
Tôi vẫn còn nhớ là vào mùa hè năm ấy, khi cô con gái thứ hai của tôi- cháu Ngọc, mới lên bốn, bỗng nhiên cẳng chân trái cháu bị sưng đỏ và to đùng. Cháu đau khóc suốt, dù cháu là đứa trẻ vốn hết sức ngoan. Chúng tôi đã cho cháu uống đủ các loại thuốc kháng sinh, nhưng bệnh của cháu cũng không hề lui . Đưa đi bệnh viện, người ta bảo có lẽ phải làm phẫu thuật. Thương cháu quá, vợ chồng tôi cứ dùng dằng mãi.

Bỗng nhiên, như có Trời bảo, một vị hàng xóm mách là nghe nói có cụ Trưởng Cần ở Đại Yên, chữa được các bệnh hiểm nghèo…Thế là tôi lấy xe đạp đèo cháu đi ngay. Tôi cũng không khỏi hồi hộp. Thế rồi cha con tôi đã được gặp cụ, đúng lúc khách khứa vừa về hết. Cụ mời tôi cùng ngồi vào chiếc phản ở trong nhà, uống nước, hút thuốc và trò chuyện, còn cháu Ngọc tập tễnh chiếc chân đau chơi ở ngoài sân xem vườn hoa cây cảnh của cụ một cách rất thích thú.

Đi theo tiếng gọi của Nhà văn hóa tâm linh đầu tiên của Việt Nam

Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bài tham luận của GSTS YK- Đoàn Xuân Mượu, trong buổi tọa đàm ngày 27/8/2011.

Bộ môn Cận tâm lý và Bộ môn Thông tin dự báo thuộc Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người cùng gia đình cụ cố Nguyễn Đức Cần có sáng kiến tổ chức cuộc tọa đàm về Nhà văn hóa tâm linh đầu tiên ở nước ta vào dịp cả nước nô nức chuẩn bị lễ kỷ niệm cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi ngày 19 tháng 8 và ngày Quốc khánh 2-9 năm 1945 . Sự trùng hợp này có ý nghĩa to lớn để chúc mừng đất nước và để tạ ơn đất nước đã tạo điều kiện cho việc nghiên cứu một hiện tượng tâm linh, mà tuy kết quả có tính thuyết phục nhưng chưa được lý giải đầy đủ về mặt lý luận .

Đáng mừng thay từ năm 1993 đến nay những phát minh khoa học của Vật lý lượng tử và Cận tâm lý học đã cung cấp những luận cứ khoa học soi rọi cho cơ chế của hiện tượng ngoại cảm và của khả năng chữa bệnh không dùng thuốc . Dù thiếu lý thuyết nhưng Nhà ngoại cảm Nguyễn Đức Cần đã cứu nhân độ thế từ năm 1940 cho đến khi cụ qua đời vào năm 1983, vượt qua bao khó khăn trở ngại.

10 tháng 7, 2011

Ngày giỗ 28 cụ đăng trên báo Khoa Học và Đời Sống

Chúng tôi xin trân trọng giới một bài viết nhân ngày giổ thứ 28 của cụ đăng trên báo Khoa học & Đời sống số 82, Thứ bẩy ngày 9 tháng 7 năm 2011.

Những năm 70,80 của thế kỷ XX, cụ Nguyễn Đức Cần được coi như một “phù thủy” chữa bệnh bằng năng lượng nổi tiếng. Ngày 4 /7/2011( mùng 4 tháng 6 năm Tân Mão ), hàng trăm người từ khắp nơi đổ về làng Thanh Mai, huyện Thanh Oai, Hà Nội để tưởng nhớ ngày giỗ của cụ Nguyễn Đức Cần..

14 tháng 3, 2011

Thân thế và cuộc đời (1/18)

Ngõ xưa Đại Yên

“ Ven đô Hà Nội , bên ngàn hoa thắm lừng hương . Đây làng Đại Yên xuất hiện một bậc danh nhân…’’

Làng Đại Yên trước đây là một làng trại thuộc Tổng Nội của kinh thành Thăng Long xưa, nay thuộc phường Ngọc Hà , quận Ba Đình , thành phố Hà Nội.

Về mặt địa lý, phía bắc làng là con đường Hoàng Hoa Thám , nhưng dân làng vẫn quen gọi là đường Thành ( thành Thăng Long ). Phía đông giáp với làng Hữu Tiệp . Phía Tây giáp với làng Liễu Giai và Vĩnh Phúc. Phía nam giáp với con đường Đội Cấn đến chân núi Trúc .

Trước đây, làng có tên là trại Đại Bi , đến khoảng cuối thời hậu Lê, thì đổi tên là trại Đại Yên. Cổng làng Đại Yên được xây dựng từ lâu đời, trông thật bề thế . Vào năm Đinh Tỵ , triều vua Khải Định ,cổng làng được tu tạo lại do công đức của cụ Tổng Nhuận, thân phụ cụ Nguyễn Đức Cần.

Phía trên cổng ghi rõ ba chữ đại tự “ Đại Yên môn”, có lẽ đây là chiếc cổng làng duy nhất còn lại trong vùng Thập tam trại (mười ba làng trại thuộc Tổng Nội ).

Đình Đại Yên nằm ở giữa làng nhìn sang núi Cung và núi Cột Cờ, thờ Ngọc Hoa công chúa. Đó cũng là vị Thành hoàng làng .Theo truyền thuyết : Lý Thường Kiệt được vua nhà Lý cử đi chinh phạt Chiêm Thành , nhân dân quanh vùng kinh thành nô nức tòng quân . Một cô bé mới chín tuổi, người trại Đại Bi ( sau là Đại Yên ) cũng tha thiết xin theo việc quân cho bằng được ,và tự nguyện cải trang làm em bé bán hàng vào trại giặc thám thính, nắm tình hình trại giặc. Nhờ đó quân ta đại thắng, nhưng cô bé đó đã hi sinh.Vua Lý phong cô là Ngọc Hoa công chúa. Lăng mộ cô được đặt ngay ở sau đình làng , được nhân dân đời đời hương khói, thờ phụng. Trong đình có nhiều câu đối ca ngợi công trạng của cô. Hội làng mở vào ngày 14 tháng 3 (âm lịch) hàng năm.

Xưa kia làng Đại Yên có một ngôi chùa trên núi Voi . Vào năm 1892, tên Tây thực dân Pháp là Hommel đã phá ngôi chùa để xây nhà máy bia , dân làng gọi là nhà máy bia Ô- mền.

Người làng Đại Yên ngoài nghề làm ruộng, trồng hoa , còn có nghề trồng cây thuốc nam và đi hái thuốc nam, nhiều gia đình phải lặn lội đi rất xa , lên cả những vùng rừng núi để kiếm thuốc. Có nhiều người chuyên bán thuốc nam ở các chợ trong thành phố.

Dân làng Đại Yên có ít người là ngụ cư, phần lớn người trong làng có quan hệ họ hàng thân thuộc với nhau, do đó họ sống với nhau trong cảnh hòa thuận đoàn kết, tình làng nghĩa xóm .Đó cũng là một nét đẹp văn hóa của làng quê đất Việt .

Làng Đại Yên có nhiều dòng họ lớn : Họ Trương, họ Đỗ, họ Lưu, họ Nguyễn, họ Ngô , họ Trần và họ Hoàng. Riêng họ Hoàng lại có hai dòng là họ Hoàng Văn và họ Hoàng Hữu.Họ nào trong làng cũng có nhà thờ họ. Trong nhà thờ họ Nguyễn còn lưu giữ các văn bia quý giá từ bao đời trước , phía trên nhà thờ tổ có ghi bốn chữ “ Hữu khai tất tiên ” , dịch nghĩa là : Có mở mang hiển đạt là nhờ phúc ấm của tổ tiên.

Theo gia phả dòng họ Nguyễn ( chi thứ hai ), tại làng Đại Yên-Hà Nội , thì thủy tổ phát tích tại xã Mai Viên, huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.

Vị Cao cao cao tổ có sắc phong Đại tướng quân từ đời Lý.Đến khoảng thời hậu Lê, cụ Nguyễn Phúc Xuân dời đến làng Đại Yên , thành cũ Thăng Long, làm được nhiều việc tốt lành, là đời Nhất đại khởi di tổ ( đời tổ thứ nhất tại Đại Yên –Hà Nội ).

Đến triều Vua Tự Đức, cụ Nguyễn Quý Khoan tự Phúc Toàn là đời tổ thứ tư tại nơi đây (Đại Yên).Dân làng thường quen gọi Cụ Toàn là cụ Xã Nhiêu.

Cụ là một nhà nho yêu nước đã mang kinh sách về truyền bá cho dân ở trong vùng thập tam trại.

Vào khoảng đời Vua Duy Tân năm thứ nhất, cụ Nguyễn Phúc Toàn tham gia hoạt động trong phong trào Đông Kinh nghĩa thục , mang những tư tưởng tiến bộ, động viên dân ta chống các lề thói phong kiến lạc hậu, phát triển nền văn hóa dân tộc , đề cao tinh thần chống thực dân.

Sau khi thực dân Pháp đàn áp phong trào và đóng cửa trường tháng 12 năm 1907, cụ đã cùng một số sỹ phu yêu nước lên Yên Thế, tham gia cuộc khởi nghĩa chống Pháp do cụ Đề Thám lãnh đạo. Cụ là người cộng sự đắc lực và là mưu sỹ thứ hai của lãnh tụ Hoàng Hoa Thám.Khi cuộc khởi nghĩa Yên Thế thất bại năm 1913, cụ Nguyễn Phúc Toàn đã anh dũng hy sinh , gia đình đã lấy ngày 23 tháng 3 âm lịch , là ngày cụ từ biệt nhà ra đi làm ngày giỗ của cụ.

Cụ Nguyễn Phúc Toàn đẹp duyên cùng cụ Hoàng Thị Thêm là một người cùng làng Đại Yên. Hai cụ sinh hạ được bẩy người con, ba gái và bốn trai.

Năm 1883, cụ Thêm sinh người con thứ tư là con trai, đặt tên là Nguyễn Đức Nhuận . Trong gia phả từ những đời trước dòng họ Nguyễn ( chi thứ hai ) thấy ghi chữ đệm là chữ Quý, có đôi ba người lại thấy ghi chữ đệm là chữ Văn .

Khi cụ Thêm sinh người con thứ tư này thì chữ Quý được thay bằng chữ Đức.

Theo gia phả tính đến đời cụ Nguyễn Đức Nhuận , thì là đời tổ thứ năm tại đây ( Đại Yên ).

Cụ Nhuận sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, nhưng có nền nếp. Xưa gọi là con nhà cụ đồ.Từ lúc còn nhỏ cụ đã phải đi chăn trâu cắt cỏ, việc học cũng chỉ hết quyển Tam tự kinh.

Từ năm 17 tuổi, cụ đã đi làm thợ xây.Vốn tính cần cù và có chí, lại thông minh và biết tính toán giỏi như một kỹ sư, chẳng bao lâu cụ đã trở thành một nhà thầu có tiếng ở Hà Thành.

Năm 1922, Cụ Nhuận ra làm phó chánh tổng của Thập tam trại, cũng từ đó dân làng gọi cụ Nguyễn Đức Nhuận là cụ Tổng. Ngoài việc làm nhà thầu xây dựng, cụ còn mở các xưởng gỗ ở phố Quan Thánh, xưởng Thủy tinh ở khu vực Yên Ninh –Hàng Bún.Có lần cụ đã gửi đồ thủy tinh đi dự hội chợ Á Châu tại Phnom Penh và được thưởng Chương Mỹ bội tinh ( giống như Huy chương vàng hội chợ bây giờ ).

Tuy là một người có danh giá và giàu có thời bấy giờ, nhưng cụ thường làm những việc công đức,từ thiện.Khi ở Nam Định bị lũ lụt, dân tình đói khổ, cụ đã giúp đỡ chu cấp gạo tiền, quần áo cho những đồng bào nghèo gặp cảnh thiên tai.

Ngày có nạn đói ở miền bắc năm 1945, gia đình cụ hàng ngày nấu cháo để ở trước cửa nhà, hễ ai đói đi qua thì cho họ một bát, ăn cho đỡ đói lòng.

Cách mạng tháng năm 1945 mới thành công, chính phủ mở đợt quyên góp tuần lễ vàng tại Hà Nội, cụ đã ủng hộ chiếc Chương Mỹ bội tinh đúc bằng vàng cho kháng chiến.

Vào ngày 17 tháng 12 năm 1946 ( 24 tháng 11 năm Bính Tuất), giặc Pháp ở trong thành Hà Nội đem quân ra khu vực phố Hàng Bún-Yên Ninh , vây bắt và giết hại đồng bào , trong đó có xưởng thủy tinh của cụ Nhuận.Sau khi quân giặc rút vào trong thành, gia đình biết tin dữ, vội cho người đi tìm cụ.

Nhưng phố xá chỉ còn vương lại mùi khói súng và tro tàn, không tìm thấy dấu vết gì của cụ.Người ta bảo rằng những người dân lành bị giặc giết hại đều được mang đi chôn cất tập thể tại chỗ gần cửa tòa Hà Nội ( nghĩa trang 19 tháng 12, nay là chợ Âm phủ ).Sau này thành phố Hà Nội đã quy tập số hài cốt đồng bào đó lên nghĩa trang Yên Kỳ tại Bát Bạt, Sơn Tây.

Từ ngày đó về sau, gia đình lấy ngày 24 tháng 11 âm lịch làm ngày giỗ của Cụ Nguyễn Đức Nhuận . Có một sự trùng hợp ngẫu nhiên,cũng vào ngày đó mười năm về trước là ngày giỗ của cụ Nguyễn Qúy‎ Yêm, một người anh ruột của cụ Tổng Nhuận.

Thân thế và cuộc đời (2/18)


Cụ Nguyễn Đức Nhuận đẹp duyên cùng cụ Hoàng Thị Khế là một người con gái thứ ba của một gia đình mang dòng họ Hoàng Văn ở làng Đại Yên – Hà Nội. Cụ sinh năm Ất Dậu , đời vua Hàm Nghi năm thứ 2 ( 1885) và mất ngày 8 tháng 6 năm 1945 tức ngày 28 tháng 4 năm Ất Dậu đời vua Bảo Đại năm thứ 20.

Làng Đại Yên xưa là một trại trồng cây thuốc nam và cũng trồng rất nhiều loại hoa hồng bạch ở phía tây thành cũ Hà Nội. Đây là nơi sinh sống của nhiều dòng họ. Riêng họ Hoàng lại có hai dòng là họ Hoàng Văn và họ Hoàng Hữu. Nhưng có lẽ dòng họ Hoàng Văn là dòng họ to nhất làng, chiếm non nửa số dân đinh trong làng.Ngôi nhà thờ tổ họ Hoàng Văn, nay vẫn còn ở tại số nhà 89 làng Đại Yên. Trong đó bức hoành phi có ghi bốn chữ đại tự “Tiên tổ họ Hoàng” và người trong họ Hoàng Văn vẫn tự hào là còn lưu giữ được bức chân dung của cụ tổ bằng khảm trai đã có từ hàng trăm năm, nay vẫn giữ nguyên được vẻ đẹp.

Ngay từ thuở nhỏ, người con gái làng hoa ấy đã làm quen với công việc vườn tược, đồng áng. Ngày đó quanh vùng thập tam trại hãy còn những ruộng lúa xanh rì bát ngát, những vườn tược mênh mông gió thổi, những ao hồ uốn lượn nước trong xanh. Khi đến tuổi trăng tròn, trên đôi vai bà đã tòng teng đôi quang gánh, những gánh hàng thuốc nam, cái nghề truyền thống lâu đời của dân làng, có từ khi vua Lý mở mang kinh thành.

Hai cụ sinh hạ được năm người con. Người con gái đầu, là cô Nhuần hay còn gọi là cô Chín, vì cô mất lúc mới được chín tuổi. Dân làng kể rằng cô rất đẹp và nết na.Sau cô Chín là ba đốt con trai, nhưng các cậu đều bỏ đi từ sớm.

Đêm 30 Tết Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân thứ 3, Cụ Hoàng Thị Khế sinh lần thứ năm là con trai, đặt tên là Nguyễn Đức Cần.

Các cụ già trong làng kể lại rằng : Khi bà cụ Khế sinh người con trai thứ năm này vào đêm 30 Tết , thì đêm hôm ấy trời bỗng sáng trưng như có trăng rằm. Phải chăng đó là một điềm lành báo rằng , có một bậc kỳ tài xuất thế để ra giúp đời.

Ngày bà về làm dâu nhà họ Nguyễn, tuy cùng là cảnh nghèo nhưng cũng được tiếng thơm là con dâu nhà cụ đồ.Bà một lòng một dạ gánh vác giang sơn nhà chồng, để chồng chí thú làm ăn.Đến khi người chồng công đã thành, danh đã toại, ngày đêm xe ngựa dập dìu nơi kinh thành phồn hoa, bà vẫn mặc lòng ở lại làng xưa. Dù nghèo đói một mẹ một con dưa muối nuôi nhau.

Suốt cả cuộc đời , bà đã tận tụy làm việc lao đông, hy sinh vì con và cũng chính bà đã khơi nguồn cho con đường đi sau này của người con trai mà bà hằng yêu dấu.

Sử xưa thường nói nhiều về những danh nhân, những vị tướng oai hùng …, mà đôi khi lãng quên đi những người mẹ vĩ đại của họ.

Người Mẹ Việt chân chất, giản dị như hạt lúa, củ khoai, như làn gió mát trưa hè, như ánh lửa ấm nồng trong đêm đông giá lạnh…Mẹ đã nuôi ta bao tháng ngày đắng cay vất vả

Thật đúng là :

Mẹ ta lòng thành thực
Thương con chẳng chút ngơi
Nhả ngọt nào có tiếc
Ăn đắng nói cùng ai
Yêu dấu như vàng ngọc
Nâng niu tay chẳng rời
Những mong con no ấm
Mẹ đói rách cũng vui

Bà cụ Khế cũng giống như bao bà mẹ nơi thôn quê đất Việt
Lòng mẹ thương con như nước nguồn chảy mãi.

Thân thế và cuộc đời (3/18)

Khi cậu bé Nguyễn Đức Cần lên tám tuổi, bố cậu lúc ấy đã là một nhà thầu có tiếng ở Hà thành, cho cậu đi học tại trường làng . Sau đó ông xin cho con vào học tại trường Albert Sarraut Hà Nội. Trường Anbe Xarô được xây dựng sau khi Phủ Toàn quyền hoàn thành. Mặt trước của trường là phố Cộng Hòa ( Rue de la Respublique ), nay là phố Hoàng Văn Thụ .Trường chủ yếu dành cho học sinh người Pháp, ngoài ra cũng dành chỗ cho các học sinh dòng quý tộc Luang Prabang ( Lào), con cháu tổng đốc Vân Nam và một số ít con quan lại cao cấp như tổng đốc, tuần phủ, hoặc gia đình tư sản người Việt Nam, nhưng số lượng cũng rất hạn chế.

Cậu học sinh Nguyễn Đức Cần theo học ở Trường Xarô bốn năm. Đây là một ngôi trường nội trú, học sinh ăn học tại trường , một tháng mới được về thăm nhà một lần. Quần áo được may đồng phục, việc giáo dục học hành theo như hình mẫu ở Pháp quốc.

Mùa thu năm 1919, cụ Nguyễn Đức Nhuận, khởi công xây dựng ngôi nhà 86 làng Đại Yên cho con trai, đến năm sau, ngôi nhà đã được hoàn thiện.Cụ muốn gây dựng cho con trai mình có một tài sản và muốn hướng cho cậu kế tục công việc kinh doanh của mình.

Nhưng ngay từ lúc còn nhỏ tuổi, cậu bé Nguyễn Đức Cần đã tỏ rõ thiên hướng của mình. Cậu không thiết gì đến ngôi nhà to rộng cũng như sự giàu sang mà bao người khác đang mơ ước.

Năm 1921 khi cậu mới lên 12 tuổi , gia đình đã làm lễ cưới cho cậu. Vào thời kỳ phong kiến lúc đó, ở các làng quê , người ta thường cưới vợ gả chồng rất sớm.

Ông bà, cha mẹ dạm hỏi đám nào có môn đăng hộ đối, rồi nhờ thầy xem ngày lành tháng tốt là tiến hành hôn lễ. Cô dâu , chú rể nhiều khi chẳng biết mặt nhau.

Sau này, cụ Nguyễn Đức Cần có kể lại rằng : Bố mẹ sắp đặt cả. Bảo cưới là cưới, thế thôi.

Cô dâu lúc đó 14 tuổi , là con gái nhà họ Lê ở làng bên Hữu Tiệp.Nhưng sau khi cưới được ít ngày, cô dâu chê chú rể trẻ con nên bỏ về sống ở nhà mẹ đẻ.

Năm 1922 cụ Nguyễn Đức Nhuận ra làm phó chánh tổng Thập tam trại ( mười ba làng Trại trong Tổng Nội – thành Thăng Long xưa) và làm lễ khao làng rất lớn. Thế là một công đôi việc , khi trước là một nhà thầu giàu có , nay lại có thêm chức vị trong hàng quan lại, công việc kinh doanh của cụ ngày càng phát đạt.Cũng từ đấy dân làng gọi cụ Nguyễn Đức Nhuận là Cụ Tổng ông.

Sau khi nhận chức Phó tổng thập tam trại ít lâu , Cụ Tổng tiến hành xây dựng thêm một ngôi nhà nữa tại Đại Yên .Ngôi nhà này bề thế như một ngôi phủ tổng đốc , ngay gần cổng làng , trên con đường đi đến thôn Đống nước và núi Voi.

Lúc đầu dân làng không hiểu tại sao cụ lại xây nhiều dinh cơ như vậy, nhưng rồi sau mới rõ là cụ chuẩn bị nhà riêng cho bà hai , bà ba.

Lẽ đời như vậy, khi người ta đã có đầy đủ tiền của lẫn danh vọng thì đi tìm thú vui, vợ nọ con kia cũng là việc bình thường.

Nhưng rồi ở đời chẳng ai học được chữ ngờ .Sau khi hoàn tất ngôi nhà trên thì Cụ Tổng gặp bao việc rắc rối thị phi . Cụ bị những người đồng liêu kiện vì đã xây nhà phạm luật phong kiến . Vụ kiện cứ kéo dài mãi , tuy cuối cùng có thắng , nhưng cũng làm cụ hao tốn biết bao nhiêu tiền bạc.

Sau chuyện đó tưởng rằng đã yên, không ngờ cụ lại bị lâm bệnh . Khi đi khám các quan đốc tờ tây ,người ta không tìm ra được đó là bệnh gì , chỉ thấy trong bụng cụ nổi lên một cái u to như quả trứng , có điều lạ là khi uống thuốc vào thì cái u đó nó chạy lung tung trong bụng và gây đau đớn cho cụ. Người nhà thấy thuốc tây không đỡ bèn đổi sang cho cụ uống thuốc ta. Làng Đại Yên có truyền thống trồng cây thuốc nam từ lâu đời , người ta cắt cho cụ uống thuốc nam không khỏi rồi thay sang thuốc bắc mà bệnh cũng không chuyển.

Dân làng đồn rằng cụ bị ai đó hại chăng ? Vì họ kể rằng, khi cụ xây nhà có những người lạ , có vẻ như là những thầy địa lý lảng vảng gần khu đất đang xây và làm phép gì đó để hại cụ.Thật là mọi việc cứ rối cả lên .

Người ta bảo, có bệnh thì vái tứ phương. Chẳng lẽ cứ để chồng nằm đó chờ chết, cụ Tổng bà quyết chí đi tìm thầy , tìm thuốc để cứu chồng . Sau bao ngày lặn lội ngược xuôi, cụ Tổng bà đã mời được một vị Thầy về làng .Người làng không hiểu ông thầy đó chữa bệnh như thế nào , nhưng chỉ sau đó vài hôm thì cụ Tổng ông đã khỏi bệnh. Thật là một sự thần kỳ. Nhưng điều mà gia đình cụ càng thêm khâm phục là vị Thầy đó không nhận tiền bạc thù lao chữa bệnh , mà chỉ nói là chữa bệnh làm phúc mà thôi.

Lúc đó cậu học sinh Nguyễn Đức Cần đã tốt nghiệp trường Anbe Xa rô và đang ở nhà cùng mẹ chăm sóc bố .

Sau khi hỏi ý kiến con trai, cụ Tổng bà thưa chuyện với ông Thầy và xin phép Thầy cho con trai mình được đi theo học , vì cụ thấy ông thầy đó giỏi quá và lại là một người đạo cao đức trọng như vậy, gửi con cho Thầy vừa là để trả ơn Thầy , vừa là để cho con được theo học Thầy. Dĩ nhiên là Cụ Tổng ông cũng phải đồng ý như vậy, vì chính cụ cũng thấy rằng tiền của bao nhiêu cũng không khỏi được bệnh , không cứu được mạng sống của con người.

Thân thế và cuộc đời (4/18)

Vùng rừng núi Ba Vì
Đây là lần thứ hai, cậu bé Nguyễn Đức Cần phải xa gia đình . Lần đầu là lúc cậu đi học tại trường An be – Xa rô, phải ở nội trú trong trường. Nhưng thời gian đi học đó thật đầy đủ sung sướng,cậu được ăn ngon , mặc đẹp và được vui chơi cùng các bạn học đồng trang lứa.

Lần đi này là bước vào trường đời .Cậu chưa hình dung nổi con đường trước mặt sẽ như thế nào , nhưng được ở bên cạnh một bậc Minh sư , thì cậu cảm thấy yên lòng, vững dạ và hăm hở lên đường . Lúc hai Thầy trò ra đi, mẹ cậu tiễn đến cổng làng, bà nói với người Thầy : Trăm sự nhờ Thầy dạy bảo cho cháu. Người Thầy cũng rất kiệm lời, nói rằng : Cơ Trời đã định, Đại An sẽ trở về. Rồi hai thầy trò rảo bước lên đường.

Trên con đường thiên lý, hai thầy trò, ngày đi đêm nghỉ. Nơi họ dừng chân, có khi là một quán xá ven đường hay một nếp nhà đơn sơ ở một miền quê nào đó, nhưng cậu thấy bất kỳ ở nơi nào, thầy trò họ đều được đón tiếp thật ấm nồng, như những người khách quý. Qua câu chuyện của chủ nhà , cậu mới hiểu rõ , vị Thầy đây là người ân nhân của họ, đã cứu bệnh cho gia đình họ. Nay được gặp lại Thầy thì ai nấy đều mừng rỡ . Tình cảm của người dân quê thật là mộc mạc chân thành.Nhà nào cũng thiết tha mời thầy ở lại, nhưng hai thầy trò chỉ dừng chân một đôi ngày, rồi lại lên đường.

Một buổi chiều kia , hai thầy trò dừng chân ở một miền quê vùng trung du, còn chưa biết đêm nay sẽ nghỉ ở đâu, thì bỗng thấy phía trước một ngôi cổ tự. Thật may, vị sư chủ trì ngôi chùa đó lại là một người bạn cũ của người thầy.

Đúng là : “ Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ ”, có duyên thì vạn dặm cũng gặp nhau..
Vị sư trưởng mời hai thầy trò vào thư phòng dùng trà, căn phòng tuy nhỏ nhưng trang nhã, trên tường treo những bức tranh thủy mạc và những bức thư họa.

Chủ khách cùng an tọa, vị Thầy giới thiệu cậu với sư trưởng. Vị trưởng lão ngắm nhìn cậu, rồi bảo : Cậu bé này thân tướng uy nghiêm, ngũ quan thật đầy đặn, má đầy như má sư tử , ắt hẳn là người chủ của tương lai.

Vị Thầy đáp lại : Hiền huynh quả là có cặp mắt thần quang ,và hai người cùng cười vang.

Tối hôm đó , Thầy hỏi cậu : Con có nhớ câu “ Nhân bất học , bất tri lý ’’ không ? , rồi thầy giảng rằng : Học với thầy đây là học ở trường đời và học để làm Người. Lý ở đây là cái lẽ tự nhiên của trời đất, rồi Thầy hỏi đến câu : “ Ngọc bất trác , bất thành khí ’’ và thầy giảng nghĩa : Con người ta phải rèn luyện thì mới trong sáng và mới giúp được đời, như hòn ngọc kia không đẽo gọt mài rũa , thì không thành của quý.

Sáng sớm hôm sau, thầy trò chào từ biệt vị sư trưởng để tiếp tục cuộc hành trình. Vừa đi, Thầy vừa giảng giải cho cậu : Đạo là gì ? “ Đạo nhược lộ nhiên, đắc kỳ môn nhi nhập ’’. Đạo như con đường đó , hễ gặp được cửa thì vào. Đạo là đạo tự nhiên của trời đất. Đức là gì ? Đức nằm trong Đạo . Đức là nhờ vật ấy mà thành hình….Cứ thế mỗi ngày, lời dạy của Thầy cứ như mưa dầm thấm lâu.

Hòn đá đen, trước cửa Đền Đá Đen

Một buổi, thầy bảo với cậu: Ngày mai ta sẽ vào đến rừng . Rừng xanh, ôi rừng xanh, đó là những từ mà cậu chỉ được đọc trong những cuốn sách , nay sẽ được theo chân thầy đến đó. Hẳn có bao điều lý thú… nhưng thầy lại dặn rằng : Bây giờ sẽ là những ngày gian khổ .

Hôm ấy, khi hai thầy trò vừa mới đến cửa rừng, thì gặp một ngôi đền nhỏ. Thầy bảo cậu : Chúng ta hãy vào lễ Bà chúa rừng . Ngôi đền đó dân quanh vùng gọi là đền Đá Đen . “ Đất có thổ công , sông có Hà bá, rừng cũng có Chủ ’’ và thầy chỉ cho cậu thấy ngọn núi cao vời phía xa kia , là nơi thầy trò ta sẽ tới.

Khỏi phải nói đến bao nỗi vất vả khi băng rừng , vượt núi . Khi khát thì thầy trò uống nước lâm tuyền, bụng đói thì kiếm quả rừng .Một buổi chiều tối, hai người dừng chân ở một hang núi . Thầy bảo cậu đi kiếm củi khô để nấu ăn . Ngồi bên đống lửa bập bùng trong rừng khuya vắng lặng , cậu thấy cuộc đời mình đã chuyển sang một trang mới . Có một sức mạnh huyền bí nào đó đang thấm dần vào cậu…

Bỗng thầy hỏi cậu : Con có biết tại sao ta lại đưa con đến chốn này không ? và thầy dạy : Người tu thân là rửa lòng nuôi đức , chứa nhóm tinh thần là cái tự lực bên trong . Giấu tích ẩn danh ,bặt dứt ồn ào là cái trợ duyên bên ngoài .Trong tâm , ngoài cảnh được vắng lặng thì cái thể tính chân như sẽ tự bày , rồi Thầy nói tiếp : Sớm mai ta sẽ đưa con lên đỉnh non Tản .

Không biết ngày ấy , vị Thầy đã đưa cậu lên bằng cách nào , nhưng sau này cụ Nguyễn Đức Cần có kể lại : Vào thời đó, chưa người nào có thể lên được đỉnh Mẫu , vì bên dưới là vách đá thẳng đứng , mà lạ lắm trên đỉnh có một bàn cờ tiên và có một giống cỏ mềm như tóc người . Cũng tại đó, Thầy đã truyền dạy cho cậu phép luyện thần nhãn . Phép hấp thụ dương quang này , mới đầu người học , tập nhìn không nheo mắt vào mặt trời lúc mới mọc , dần dần khổ công cho đến khi nhìn được mặt trời lúc chói chang và khi thần nhãn trông thấy rõ thế giới thanh khí, thì có thể gọi là thành công . Thầy bảo cậu : Con phải nhớ, nơi đây chính là linh khí của nước Việt .

Không biết có bao tháng ngày thầy trò họ sống cách biệt ở trên núi , nhưng đến một hôm , vị Thầy bảo cậu : Thôi thế là đủ , đã đến ngày Thầy trò ta xuống núi .

Họ ngược sông Đà để đến vùng Thác Bờ , Hòa Bình . Sông Đà bắt nguồn từ Vân Nam chảy qua Lai Châu , qua rất nhiều thác ghềnh , đến Sơn La thì sông uốn khúc , rồi lại chạy thẳng xuống Hòa Bình , đến đây lòng sông đã mở rộng và đỡ hung dữ hơn .

Hai thầy trò dừng chân ở vùng Chợ Bờ , Hòa Bình . Nơi đây có rất nhiều hang động sâu, nhiều tầng, thạch nhũ muôn hình lung linh soi bóng nước. Họ sống trên sông cùng những người đánh cá . Ở đây cậu học cách chèo thuyền , chống mảng làm quen với cuộc đời sông nước .

Đêm đêm , Thầy truyền cho cậu phép hấp thụ Tuệ quang . Thầy dạy : Trên trời có mặt trời, mặt trăng và muôn vàn tinh tú gọi là Văn. Dưới đất có núi , sông, gò , hốc gọi là Lý . Do vậy địa lý ứng với thiên văn .

Cứ như thế , vào những đêm trời quang , thầy trò nằm kiểm đếm các vì sao . Thầy dạy : có bẩy vị sao thất chính là Thái dương , Thái âm , sao Thủy , hỏa, mộc , kim , thổ , lại còn có nhị thập bát tú định vị ở bốn phương . Phương đông là chòm sao Thanh long có bẩy vị : Giác , Cang , Đê , Phòng , Tâm , Vĩ , Cơ . Phương nam là Chu tước có bẩy vị : Tỉnh , Quỷ, Liễu , Tinh ,Trương ,Dực, Chẩn . Phương Tây là Bạch hổ cũng có bẩy vị :Sâm, Chủy , Tất , Mão ,Vị, Lâu, Khuê . Phương bắc là Huyền Vũ có bẩy vị : Đẩu ,Ngưu ,Nữ , Hư, Nguy , Bích , Thất . Xem dải Ngân Hà , khi thấy có ngôi sao nào qua sông, ngôi sao nào mới mọc lên, ngôi nào sắp mất , thì ứng với điều gì ở chốn nhân gian.

Được Thầy tận lòng giảng giải như vậy , cậu càng thấy vũ trụ thật bao la và tâm trí cậu cảm thấy như được bay bổng cùng với trời mây.

Một hôm , thầy lại bảo cậu rằng : Chúng ta lại lên đường thôi.

Đứng ở phía chợ Bờ , nhìn về miền Tây bắc , cậu không ngờ rằng trên đỉnh của những dãy núi xa kia lại có những vùng bằng phẳng , những cao nguyên rộng lớn. Họ đi qua suối Rút , từ giã bản cuối cùng của Hòa Bình rồi leo đèo để lên cao nguyên Mộc Châu , ngày ấy toàn thấy một vùng cỏ tranh hoang vu , nhưng khí trời nơi đây thật mát mẻ , dễ chịu .

Năm 1895 tỉnh Vạn Bú được thành lập, tỉnh lỵ đặt tại Pá Giang bên bờ sông Đà. Đến năm 1904, người Pháp chuyển tỉnh lỵ về Sơn La và đổi tên tỉnh Vạn Bú thành tỉnh Sơn La. Đến Sơn La , thầy trò lại vượt đèo Pha Đin để sang Lai Châu .Có đến đây mới thấy cảnh núi non hùng vĩ , núi cao ngất trời , trùng trùng điệp điệp , các bản chiềng trở nên thưa thớt , xa xa thấp thoáng những nếp nhà sàn, cả ngày họ chẳng gặp một bóng người, ven đường những cây hoa trạng nguyên nở đầy hoa đỏ rực ,những bông hoa lau màu trắng bạc đung đưa như đang reo trong gió núi, mây ngàn in lên nền trời xanh thẳm, vẽ lên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp .

Thầy trò họ cứ đi mãi , đi mãi và sang đến vùng thượng Lào .

Sau này, cụ Nguyễn Đức Cần kể lại : Ngày ấy sang bên thượng Lào,trong rừng sâu , cụ có gặp một ngôi đền thiêng thờ Đức Lê Sơn thánh mẫu và cụ đã ở lại nơi đó tu một thời gian.

Không ai biết Thầy trò họ đã còn đi những nơi đâu ,và đã trải qua bao nhiêu mùa hoa Ban, hoa Mận ….

Đến một ngày kia , vị Thầy bảo cậu rằng : Đã đến lúc con phải trở về nhà, mẹ con đang mong nhớ từng ngày.

Cuộc chia tay thật là bịn rịn. Thầy dặn rằng: Nay con đã đủ sức tự lập , nhưng lúc nào khó khăn , ta vẫn ở bên con.

Thân thế và cuộc đời (5/18)

Cụ Nguyễn Đức Cần khi còn trẻ
Sau những tháng năm gian khổ , đi rất nhiều nơi và sống trong những vùng núi cao rừng thẳm , cậu bé Nguyễn Đức Cần đã trở về làng Đại Yên . Ngày nào năm xưa, khi ra đi còn là một cậu bé , nay trở về đã trở thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú . Mẹ con cậu gặp lại nhau trong ngôi nhà cũ , thật là mừng mừng , tủi tủi.

Mùa xuân năm 1926 , hội làng Đại Yên lại mở và cậu được chọn làm tướng cờ . Gia đình cậu mở tiệc khao làng rất lớn, và người vợ cũng từ làng bên Hữu Tiệp trở về .

Lúc đó , bố cậu đã ở cùng các bà vợ bé . Cậu bàn cùng mẹ xây một điện thờ Mẫu thượng thiên trong khu vườn nhà . Sau đó Cụ Tổng bà bảo cậu đi Mai Châu mời một hội hát then về mở Hội then tại nhà trong ba ngày, ba đêm liền.

Cụ Tổng bà cũng bán chiếc xà tích năm dây và thuê thợ về xây hòn non bộ trong sân nhà.

Hát then là loại hình diễn xướng dân gian tổng hợp có từ lâu đời và đặc biệt phổ biến ở vùng dân tộc miền núi phía bắc. Đây là loại dân ca gắn với nghi lễ cúng tế, đậm nét màu sắc tín ngưỡng. Then là tổng hoà các loại hình nghệ thuật nhạc- hát- múa- mỹ thuật và trò diễn, chịu nhiều ảnh hưởng của các loại hình dân ca khác như: mo, sli, lượn, phong slư, tào… Then là thiên (trời), là tiên (bụt) tức là của nhà trời. Ngày xưa hát then được các bà then, ông then diễn xướng trong lễ cầu an, sinh nhật, giải hạn, bói toán, cầu mùa, tống tiễn, gọi hồn gọi vía, mãn tang, thậm chí cả chữa bệnh.

Đối với những dịp trọng đại như cấp sắc cho người làm then hay hội then thì có khi phải kéo dài đến ba ngày ba đêm mới xong, gọi là lẩu then.

Dân làng nói rằng bố con cụ Tổng tính tình không hợp nhau . Có lẽ cũng đúng như vậy . Cụ Tổng Nhuận là một người sắc sảo và có tài trong việc kinh doanh . Lúc đầu cụ chỉ có một xưởng thủy tinh thổi thông phong ở phố Hàng Bột – Hà Nội . Sau Cụ lại mua được một xưởng gỗ rộng ở số 27 phố Quan thánh của một người Tây ở đảo Cooc xơ . Chẳng bao lâu một người chủ xưởng thủy tinh ở khu Yên Ninh – Hàng Bún do bị thua lỗ, lại nợ tiền mua củi của cụ , nên thương lượng và nhượng lại cho cụ toàn bộ khu nhà xưởng …Cụ lại tậu thêm nhà cho hai bà vợ bé vốn là hai chị em ruột .Có lẽ do bà vợ hai không có con , nên bà mai mối cho em gái mình lấy cụ Tổng , cho có chị có em.

Sau này, bà vợ ba sinh cho cụ Tổng được bảy người con . Cụ Tổng ông lên phố sinh sống cùng các bà vợ bé, thỉnh thoảng mới về làng Đại Yên. Người con trai cả Nguyễn Đức Cần cùng cụ Tổng bà vẫn ở lại ngôi nhà xưa trong làng . Với bản tính khí khái, tự lập , cả hai mẹ con quyết không nhờ cậy gì cụ Tổng ông , mà tự lao động để kiếm sồng nuôi nhau . Hai mẹ con bà không quản nắng mưa dãi dầu , cuốc đất trồng rau trên những mảnh vườn của nhà để lấy tiền sinh sống.

Đã bước vào con đường tu thân thì còn màng chi sự giàu có cao sang với xe tay áo lụa . Tiền của vàng bạc trên đời chỉ là thứ phù vân .

Lúc mới về nhà chồng , người vợ những tưởng rằng khi làm dâu của một gia đình có quyền thế và giàu có vào bậc nhất nhì trong hàng Tổng , thì sẽ được hưởng một cuộc sống nhàn nhã sung túc , nhưng rồi sớm thấy rằng cả chồng và mẹ chồng đều nhất mực từ chối mọi chu cấp của cụ Tổng ông .Đó không phải là những đồng tiền do công sức , mồ hôi của mình bỏ ra thì nhận làm chi. Sự khác biệt quan niệm về cuộc sống giữa một người muốn được sống trong giàu sang phú quý với người người vui lòng chịu cảnh nghèo khổ , kiếm sống bằng bàn tay lao động của mình ,từ đó đã nảy sinh những mối bất hòa trong gia đình , giữa vợ với chồng , giữa mẹ chồng và nàng dâu . Đó là hai con đường không thể đi chung , nhưng mà vẫn phải sống với nhau .

Năm 1927 , vợ chồng anh Nguyễn Đức Cần sinh người con trai đầu lòng , đặt tên là Nguyễn Đức Mẫn .Sau này hai vợ chồng cụ có thêm được ba người con gái nữa .

( Nguyễn Thị Chuyên 1938 , Nguyễn Thị Sinh 1947 và Nguyễn Thị Lê 1950 ).

Thân thế và cuộc đời (6/18)


Đầu năm 1939, có một người quen của cụ, là một nhà thầu lớn, mời cụ trông nom giúp cho một toán thợ . Công việc xây dựng, làm đường buộc họ phải đi đến nhiều nơi, nhưng trọng tâm vẫn ở miền Đông Bắc , suốt một dải từ Hải Phòng cho đến Quảng Ninh .

Cụ đã sống, lao động nhiều năm với những người nông dân lam lũ, bán mặt cho đất bán lưng cho giời và đồng bào dân tộc vùng rẻo cao . Nay lại có dịp sống gần gũi với những người phu hồ, phu lục lộ và anh em phu mỏ .Cuộc sống của họ cũng chẳng khấm khá hơn gì những người làm ruộng .Tai nạn, ốm đau và sức lực của họ bị vắt kiệt trong những công trình , hầm lò sâu thẳm .

Còn những người phu hồ mà cụ trông coi, có lẽ chưa bao giờ trong đời họ lại được gặp một người cai nhân đức như cụ .Cụ thương yêu và cùng sắn tay vào lao động cùng họ , từ sớm tinh mơ cho đến mờ tối . Cũng nhờ cụ mà người chủ thầu đã luôn hoàn thành sớm các công trình và đã rộng lòng trả thêm tiền công cho anh em thợ . Cả hai bên chủ thợ đều thấy mình có lợi, công việc nhanh chóng trôi chảy hơn , vật liệu không bị trộm cắp , hư hao mà người thợ lại được tăng lương, tăng thưởng . Không những thế, cụ còn đứng ra bảo vệ , che chở cho anh em thợ khi họ bị cướp bóc tài sản bởi những toán thổ phỉ .

Tại Thủy Nguyên, khi được biết đến danh cụ . Cả Tẩu , một tay anh chị trong giới giang hồ của vùng Hải Phòng , Quảng Ninh đã tìm tới và đòi tỷ thí với cụ .

Cuộc đấu trí, đấu sức thật quyết liệt, vì cả hai đều có võ nghệ cao cường .

Cuối cùng cụ đã dùng thế võ “ Ngọc hoàn bộ uyên ương cước ’’, quay mình phi chân đá ngã Cả Tẩu , đó là một thế võ tuyệt chiêu mà cụ đã được thầy dạy để hộ thân . Nhưng Cả Tẩu hiểu rõ rằng cú đá đó của cụ đã nương nhẹ đi nhiều .Cả Tẩu và các đàn em vô cùng bái phục và muốn nhường quyền cai quản trong giới giang hồ cho cụ . Nhưng cụ từ chối nói rằng, chỉ ở lại đây làm việc trông coi vài ba tháng rồi lại về làng cũ Đại Yên. Trước khi chia tay , cụ có nói : Mong anh em hãy vì nghĩa khí mà hành động .

Đầu năm 1945 , chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Phát xít Đức đã bị quét sạch khỏi lãnh thổ Liên Xô (cũ).Tại mặt trận Thái Bình Dương , phát xít Nhật cũng rất khốn đốn.Mâu thuẫn đối kháng giữa Nhật và Pháp ở Đông Dương ngày càng gay gắt. Để độc chiếm Đông Dương và trừ nguy cơ bị quân Pháp đánh vào sau lưng, đêm mùng 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đã nổ súng lật đổ Pháp trên toàn cõi Đông Dương.

Nhân dân ta rên xiết dưới ách thống trị của bọn thực dân , phát xít . Nạn thu thóc , phá màu trồng đay, nạn đói vẫn kéo dài ngày thêm trầm trọng , nào nhà tù , nào trại giam, với biết bao nhục hình…

Vận mệnh của dân tộc ta như ngàn cân đang treo trên sợi tóc .Đúng lúc đó Mặt trận Việt Minh đã ra lời kêu gọi quốc dân : Vai kề vai, không phân biệt trẻ trai hay gái, vác súng gươm, ta đi lên , ta tiến lên tiêu diệt quân thù .Sống trong cao trào cách mạng sục sôi đó , tại ngôi nhà 86 làng Đại Yên – Hà Nội , anh Nguyễn Đức Cần đã mau chóng tập hợp đông đảo quần chúng , những người lao động nghèo khổ , đêm đêm luyện tập quân sự , mua sắm vũ khí , may cờ đỏ sao vàng năm cánh để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa .

Sau này trên bức tường trong ngôi nhà 86 Đại Yên vẫn còn thấy rõ dòng chữ đã ghi ngày ấy : “ Vì Tổ Quốc , quyết hy sinh đến giọt máu cuối cùng ’’.

Ngày mùng 8 tháng 6 năm 1945 ( tức ngày 28 tháng 4 năm Ất Dậu ), một cái tang bất ngờ đã đổ xuống gia đình . Thân mẫu anh Nguyễn Đức Cần – Cụ Hoàng Thị Khế đã qua đời . Cụ nằm đó trên chiếc sập gụ trong nhà , nét mặt thanh thản như đang trong giấc ngủ trưa hè .Cả cuộc đời cụ đã sống vì chồng vì con , Cụ đã sống một cuộc đời chân chính với tất cả tình thương yêu , giản dị của một người mẹ hiền thục.Cụ ra đi trong sự thanh thản vì biết rằng người con trai yêu dấu của mình đã chọn một con đường đi đúng đắn, hợp với lẽ Trời .

Lúc đầu anh Nguyễn Đức Cần dự định sẽ tự mình lo toan tang lễ cho mẹ . Nhưng sau anh cũng đồng ý để cụ Tổng ông đứng ra lo liệu.

Sau khi chu tất xong lễ tang mẹ, anh Nguyễn Đức Cần nén nỗi đau thương , cùng các đồng chí lo toan việc nước.Sáng ngày 19 tháng 8 năm 1945 , cả Hà Nội ngập tràn khí thế cách mạng . Đồng bào rầm rộ kéo đến quảng trường Nhà hát lớn dự cuộc mít tinh lớn do Mặt trận Việt Minh tổ chức.Bài hát “ Tiến quân ca ’’ được vang lên hai tiếng Việt Nam, trong rừng cờ đỏ sao vàng năm cánh ,giữa trời thu lộng gió.

Cuộc mít tinh nhanh chóng chuyển thành biểu tình, đoàn người trùng điệp chia ra nhiều ngả đi chiếm phủ Khâm sai, tòa thị chính , trại lính bảo an..Anh Nguyễn Đức Cần lúc đó là Đại đội trưởng Đại đội Lam Sơn cũng có mặt trong ngày trọng đại của dân tộc và anh là một trong những người đầu tiên vượt qua hàng rào vào chiếm Bắc Bộ phủ.

Cuộc khởi nghĩa ngày 19 tháng 8 năm 1945 tại Hà Nội đã mau chóng giành được thắng lợi.Chính quyền đã về tay nhân dân lao động.

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình , trước hàng chục vạn đồng bào thủ đô, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập , tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới : Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra đời. Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng , tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do , độc lập ấy.
Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người dân độc lập tự do , một kỷ nguyên của lịch sử dân tộc đã được mở ra.

Dù vẫn đang tham gia hoạt động cách mạng , nhưng anh Nguyễn Đức Cần nói rằng : Nước nhà đã giành được độc lập , nhưng nhân dân còn chưa được hạnh phúc, muốn có hạnh phúc trước hết phải có sức khỏe, không ốm đau . Nay ta đi theo con đường khác , con đường mang lại sức khỏe cho nhân dân ’.

Thân thế và cuộc đời (7/18)

Sau khi ra đời, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đứng trước muôn vàn khó khăn, nguy hiểm, quân Pháp núp bóng quân Đồng minh,dã tâm quay lại xâm lược nước ta. Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến, một bộ phận quân ta rút về chiến khu Việt bắc xây dựng lực lượng vũ trang. Đơn vị của Cụ Nguyễn Đức Cần lúc đó đóng quân ở khu vực Đu , Đuổm – Thái Nguyên.

Trong những ngày tháng đó, trong núi cao rừng thẳm cụ đã được gặp một vị Thầy nữa. Và Thầy đã truyền cho cụ phương pháp chữa bệnh để về giúp dân.

Cụ Lê Văn Cảnh , pháp danh Tịnh Quang kể lại :

Trước đây, trong kháng chiến chống Pháp , tôi có tham gia vào du kích chiến. Sau đó tôi gia nhập bộ đội ở trung đoàn Lưu Vân. Chúng tôi có dự mấy trận đánh ở Khe Tang, Thạch Bích, rồi sau đó chuyển lên Việt Bắc, ở vùng Thái Nguyên.

Sau tôi bị sốt rét không tham gia trong quân ngũ nữa. Ông cụ Cần với tôi học cùng một thầy ở trên núi. Do là tôi bị một cơn sốt rét,trong lúc đi công tác , tôi nằm một mình mê man ở bãi giàng giàng trong một khu rừng gianh hoang vắng, trong lúc tôi gặp hiểm nguy đó, thì có một bà cụ người Thổ thấy, bà cụ cứu tôi mang về. Sau bà cụ đưa tôi lên núi.

Tôi vẫn hình dung được chỗ đó cách Thái Nguyên vài chục cây số, gọi là Đu, Đuổm. Đi đến chỗ đó phải qua một khu rừng gianh, đến một khe suối thì phải leo lên một vách đá dựng đứng, đến lưng chừng thì có một con đường nhỏ, rồi lại đi xuống một thung lũng.Đến một cái suối thì bà cụ người Thổ bảo tôi đứng chờ ở đấy.Bà cụ lên trước xin phép thầy. Thầy dạy lên được, bà cụ mới đưa tôi lên.

Khi nhận môn đồ, vị Thầy đó có lựa chọn . Người chỉ nhìn là Người thấy hết. Tôi thì Người chỉ hỏi qua là Người nhận, cũng có người thì thầy không thu nhận. Người bảo : “ Anh cứ về đi, cứ làm hết sức mình, rồi lên đây thầy nhận”.


Chỗ chúng tôi học là một hang đá, một cái hang lộ thiên, ở giữa có một khoảng không trung, mặt trời rọi xuống sáng trưng, phía ngoài có một hành lang đi thông sang hai bên, các cô nữ ở một bên, còn chúng tôi ở một bên. Khi nào mưa thì chúng tôi lui vào bên trong, chỗ đó có một cái lưỡi đá ( nhũ đá ) rủ xuống. Chung quanh hang là núi, dưới có suối chảy róc rách. Bốn mùa thiên nhiên cây cỏ xanh tươi. Cảnh vật rất đẹp.

Có bài thơ làm chứng rằng :
“Xưa kia một góc cõi trời
Thái Nguyên một giải là nơi trú dừng
Bốn bề núi đá mọc xanh
Có đường tiểu mạch nương mình ai hay
Bốn mùa chim núi cỏ cây
Trời xanh nước biếc hương bay ngạt ngào”.

Trong hang có một phiến đá, phía trên chỗ vách đá thấy đề mấy chữ nho.

Chúng tôi ở cách xa dân, chỉ có mấy thầy trò thôi. Hàng ngày chúng tôi đi câu cá ở suối rồi về nấu nướng, cá treo đầy ở bếp. Còn lúa gạo thì thầy trò tự gieo trồng, tự làm lấy , có cả gạo tẻ, gạo nếp, còn rau thì nhiều vô kể. Trên vách có treo cả nỏ, nhưng Thầy không cho săn bắn.Từ tờ mờ sáng, chúng tôi dậy đi câu cá. Chỗ đó suối thì bao la, rất nhiều suối.

Ví dụ như hôm nay tôi trực thì phải đi câu, được độ mười sáu , mười bảy con cá, xong mới về ngồi học. Hôm sau lại đến phiên người khác.Cá câu được về nấu với lá méo thì nó dôn dốt chua, còn măng rừng thì là cái thường rồi, các loại hoa quả khác thì nhiều lắm.Cũng có hôm chúng tôi được tập trung đông đủ, được thưởng thức, hưởng của tiên, thầy trò ngồi cùng nhau, học vui lắm.

Chúng tôi học có bẩy người, bốn người nam và ba người nữ, nhưng ở riêng biệt. Thầy có đặt hiệu cho từng người. Tôi tự là Phúc Tự, tôi còn nhớ có một cô quê ở Bắc Giang là cô Thanh thì hiệu là Huyền Vi. Thầy cho chúng tôi học luân chuyển, vì lúc bấy giờ chúng tôi còn tham gia cả công tác kháng chiến nữa. Việc học Đạọ , đầu tiên thì gian khổ đấy, sau thì phải quen đi chứ. Tức là mình phải rèn luyện, chỗ chúng tôi học là một hang đá, chung quanh là núi, lúc nào cũng thấy sương mù mịt, trời rất là lạnh. Cho nên chúng tôi lúc nào cũng đốt một đống lửa để sưởi ấm, không thì buốt lắm.Chúng tôi ngồi học trên các mô đá phẳng lì, giấy bút mua từ dưới xuôi lên. Trước khi học ,Thầy cho thắp hương rồi mới bắt đầu học.

Vị Thầy , Người không ở lại trong hang núi đó . Buổi sớm, không biết ông cụ đến lúc nào, cứ đúng giờ là cụ xuất hiện. Đến chiều tối, trước khi đi cụ nói với chúng tôi : Tĩnh ngọa“ (tức là ngủ ngon), rồi cụ đi, không biết Người đi đâu.Còn chúng tôi ngủ lại trong hang đá. Chúng tôi lấy cây giành giành bỏ hết lá đi , chỉ còn lại cái cẳng, rồi lấy lá chít, bông của cây lau làm thành một cái đệm rất êm và ấm, tuy không có màn nhưng cũng không có muỗi vì ở đó rất sạch sẽ khoáng đãng. Còn đèn thì chúng tôi lấy một ống nứa rồi chọn cỏ bấc dài, sau đó lấy nhựa trám rỏ vào ngòi bấc rồi châm lửa như ta đốt nến, khi hết lại thay cái khác.

Ông cụ , Thầy dạy chúng tôi, Người trông đẹp lắm, tóc bạc phơ, ăn mặc giản dị, Người nói là Thiền Sư truyền đạo.Thầy tôi nói có thất cửu môn, nghĩa là có 79 môn. Nhưng không phải thầy truyền cho cả. Vào đấy , Thầy đưa từng ấy môn thì cảm hứng môn nào thì Thầy xả thân Thầy dạy. Môn đồ mỗi người học một môn. Ví dụ như tôi học về nghĩa đạo là thực đạo, chứ không có ảo tưởng. Nhưng có người học về ảo tưởng. Thế cho nên trong bẩy người chúng tôi, mỗi người học một môn, không ai giống ai.

Tôi học về định số, nhưng trước tiên phải học về mệnh, cơ bản phải nắm vững ngũ hành.Có ba điều trong tam môn nghĩa đạo : Nhất bần, nhị yểu, tam vô tự. Khi lên lớp thì Thầy hỏi. Nếu giữ được tam môn ấy, thì một là tròn, hai là méo. Thí dụ : Nhất bần có khổ cực đấy, có chịu đựng được không? Nhị yểu có làm được cái nghề ấy không, có sợ chết không . Ba điều căn bản đó : một điều gian khổ, một điều sợ sệt, một điều kinh hãi, đấy là học cho đủ.

Buổi sáng sớm thì chúng tôi học võ , nhưng chúng tôi học võ thì chỉ để hộ mệnh thôi, chứ không phải học để đi ra đường đấu đá, thí dụ như khi đi đường gặp con gì thì mình có thể giữ mình được, hoặc gặp cái hung thì cũng có thể giữ mình được.Chúng tôi tập như buổi sáng ta tập thể dục vừa vận động cho cơ thể, rèn luyện cho thân thể có sức khoẻ và vừa để giữ mình.

Khi học vị Thầy nói về nghĩa Phật là chính, mà làm đạo là nghĩa Phật, chứ không phải học về tà thuật.

Khi hạ sơn thì Thầy có tập trung căn dặn chúng tôi. Tôi được đi trước. Khi đó Thầy viết chữ vào trong thân cây, không biết người làm thế nào mà khi tôi ra thì đã thấy có mấy dòng chữ viết ở đấy rồi. Thầy xem đạo đức của từng người, ai nhận chữ nào. Ở đây với Thầy đã nghèo nàn như thế ,thì sau khi học được có làm giàu, làm có hay muốn sang trọng hay không, thì Thầy nhìn vào đấy đã biết tướng tinh của từng người , mảng cái gì rồi, về sau khá hay không khá rồi và về sau có giữ được chân lý hay không.

Thầy chỉ căn dặn chúng tôi mấy điều, Người nói : “Tôi dạy tất cả các vị, về sau này các vị tự xử lý lấy. Các vị xuống là thế hệ của các người ở xã hội này”.

Thầy không bắt buộc phải theo chủ nghĩa này hay chủ nghĩa khác. Thầy chỉ dạy Đạo và chân lý, chứ không dạy phải theo môn phái nào cả.Những điều thiện hay ác tự ở trong lương tâm mình thấy. Điều thiện thì mình phải phát huy để làm tròn bổn phận nghĩa đạo. Mình phải tự học, tự hấp thụ, học thì phải hành, học thiện thì hành thiện.

Cụ Nguyễn Đức Cần có kể lại : Thời gian học đạo ở Thái Nguyên có bẩy người cùng học , ba nam và bốn nữ . Học xong, Thầy có cho thi và cụ đã đỗ đầu.Trước khi xuống núi, Thầy có hỏi : Có sợ chết không và cụ đã trả lời : Thưa Thầy, con không sợ chết.


Khi đoàn người đi xuống núi, cụ Cần đi cùng với ba người nữ , đến chỗ rừng gianh thì bất chợt thấy một con hổ lớn đang nằm trên con đường mòn phía trước . Những người đi cùng với cụ có vẻ chần chừ muốn lui, nhưng cụ nói : Không sợ, cứ đúng đường mà đi. Và cụ dẫn đầu đoàn người thẳng tiến.

Lạ thay, con hổ bỗng nhiên đứng dậy và rẽ vào khu rừng gianh rồi biến mất.

Đó là thử thách đầu tiên khi cụ Nguyễn Đức Cần xuống núi làm việc giúp đời.

Thân thế và cuộc đời (8/18)

Ngay sau cách mạng tháng 8 -1945 nền kinh tế nước ta vẫn là một nền nông nghiệp lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nạn đói chưa hết, thiên tai lũ lụt liên tiếp, ngân sách trống rỗng.Chính phủ phải kêu gọi tinh thần tự nguyện đóng góp của nhân dân .Hưởng ứng phong trào tuần lễ vàng tại Hà Nội , cụ Tổng Nhuận đã ủng hộ chiếc Chương mỹ bội tinh đúc bằng vàng cho chính phủ cách mạng .

Chỉ sau một thời gian ngắn đồng bào cả nước đã góp được 20 triệu bạc và 370 kg vàng..
Sau khi hiệp định sơ bộ ( 6 tháng 3 ) và Tạm ước ngày 14 tháng 9 năm 1946, thực dân Pháp tăng thêm viện binh và ngày càng hành động khiêu khích.

Ngày 17 tháng 12 năm 1946 chúng bắn đại bác , súng cối và cho quân lính ra giết hại đồng bào ta tại khu vực phố Yên Ninh - Hàng Bún , trong đó có xưởng thủy tinh của cụ Tổng Nhuận.

Khi gia đình cụ biết tin dữ cho người ra tìm , thì phỗ cũ chỉ còn vương lại khói súng và xác những người dân bị cháy xém nằm ngổn ngang, không thể nhận biết được đâu là người thân trong gia đình .
Dân phố bảo rằng những người dân lành bị giặc Pháp giết hại đã được đem đi chôn tập thể tại gần cửa tòa Hà Nội ( nghĩa trang 19 tháng 12 ) chỗ phố Lý Thường Kiệt , mà người dân Hà Nội vẫn quen gọi là chợ Âm phủ.

Sau này số hài cốt đồng bào trên được mang đi chôn cất tại nghĩa trang Yên Kỳ , Sơn Tây ( khu D11).

Được gia đình báo tin gửi lên chiến khu , khi cụ Nguyễn Đức Cần trở về Hà Nội thì cũng là lúc cuộc kháng chiến toàn quốc đã nổ ra trong đêm ngày 19 tháng 12 năm 1946 .Việc gia đình đành phải gác lại để lo cho việc nước .Cụ Nguyễn Đức Cần đã ở lại chiến đấu trong suốt 60 ngày đêm chống giặc Pháp tại thủ đô Hà Nội.

Đêm 17 tháng 2 năm 1947 cụ cùng đồng đội được lệnh rút khỏi thành phố, trở về chiến khu Việt Bắc để chuyển sang một giai đoạn mới.

Cuối năm 1946 , trong lúc cuộc chiến đấu đang diễn ra quyết liệt tại các thành phố lớn , thực hiện chủ trương kháng chiến lâu dài , quân dân ta khẩn trương vận chuyển máy móc , nguyên liệu , gạo muối … về các khu an toàn , tổ chức nhân dân tản cư.

Ngày ấy ,dân Hà Nội chạy tản cư về các miền quê.Gia đình cụ Nguyễn Đức Cần ly tán , mỗi người một nơi . Cụ vẫn ở lại trong vùng căn cứ Việt bắc , ông Mẫn con trai cả đi theo Đoàn thanh niên xung phong, bà Chuyên ( Tuyên ) tản cư về Nam Định , còn Cụ Lê Thị Tuyết , vợ Cụ Cần cùng một số dân làng chạy tản cư về mạn Thanh Oai – Hà Tây .

Ai đã sống trong thời loạn ly mới thấy hết được nỗi khổ của cuộc đời . Hoàn cảnh những người dân Hà Nội chạy tản cư lại càng cực khổ vô cùng . Lúc rời làng Đại Yên ra đi , bà Tuyết đang mang thai . Số tiền ít ỏi dắt lưng chẳng mấy ngày đã tiêu hết cả , chồng con mỗi người một ngả , ăn bụi ngủ bờ không nơi nương tựa .

Một ngày tháng 4 năm 1947 trong lúc đi trên đường chạy loạn , bà Tuyết đã đẻ rơi đứa con gái thứ hai tại bãi ngô trên cánh đồng làng Thanh Mai .Hai mẹ con bồng bế nhau vào ở nhờ dưới hiên ngôi đình làng thôn My Hạ .Do kiệt sức trong những tháng ngày lang bạt cơ nhỡ , ăn uống thất thường thiếu thốn nên bà không có sữa để nuôi con .

Ngày ấy, ở xóm thượng thôn My Hạ có gia đình ông Bùi Văn Hồ là một gia đình nông dân chất phác. Nhưng họ có nỗi khổ là đã mấy lần người vợ sinh con mà không nuôi được . Đi xem ông Thầy bảo rằng số họ phải nuôi con nuôi thì mới nuôi được con đẻ. Năm ấy bà Hồ cũng vừa sinh một đứa bé được vài ngày mà nó đã bỏ đi.

Không biết có sự run rủi thế nào đó , hai bà mẹ lại gặp nhau trước cửa đình làng . Ngồi bên nhau mà mỗi người một cảnh éo le , người có con thì không có sữa mà người đang căng bầu sữa thì lại vừa mất con .Bà Tuyết rụt rè nói với người phụ nữ kia xin cho con mình được bú trực .Ôm đứa bé vào trong lòng và cho nó rúc vào bầu sữa của mình , bà cụ Hồ bỗng dâng trào một cảm xúc của tình mẫu tử. Sau buổi đó , bà về nhà nói chuyện với chồng .Ngày hôm sau cả hai vợ chồng ra cửa đình gặp bà Tuyết để xin đứa trẻ về làm con nuôi.

Thật là cực chẳng đã , chẳng bà mẹ nào lại muốn cho đi đứa con dứt ruột của mình . Nhưng nhìn lại hoàn cảnh của mình , bữa no bữa đói , một giọt sữa cũng chẳng có để nuôi con , sống chết cũng chẳng biết thế nào bây giờ. Thôi cũng đành là nhắm mắt mà phó thác con cho người ta.Biết đâu nó còn được sống làm người

Từ đình đến xóm thượng cũng không xa , ngày nào bà Tuyết cũng ghé thăm con . Đứa trẻ no tròn sữa bú , ngày càng thêm lớn .

Những năm sau này bà cụ Hồ sinh thêm được hai người con , một trai , một gái và ông bà đều nuôi được các con khôn lớn thành người.

Thân thế và cuộc đời (9/18)

Từ Thái Nguyên , khi biết tin vợ sinh con gái ,cụ Nguyễn Đức Cần về làng Thanh Mai tìm gặp vợ con , thì được biết con gái mình đã là con nuôi của nhà họ Bùi được ba tháng rồi . Cũng chẳng trách gì được người vợ. Cụ đặt tên con là Nguyễn Thị Sinh để cho con sau này nhớ về nguồn gốc gia đình. Từ Thanh Mai cụ xuôi Nam Định để đón người con gái lớn là bà Tuyên lúc đó mới 9 tuổi về với gia đình.

Ông Mẫn , người con trai trưởng của cụ cũng tìm về . Thế là cả nhà sau mấy năm loạn lạc lại được gần nhau.Gửi lại người con gái thứ hai cho gia đình ông Bùi Văn Hồ , cả nhà từ biệt làng Thanh Mai chạy tản cư về mạn Vĩnh Yên. Bà Tuyên , người con gái lớn của cụ , nhớ lại : Ngày đi tản cư , Thầy tôi và anh Mẫn , ai người ta thuê việc gì cũng nhận , lúc thì gánh thuê hạt thầu dầu , rồi gánh gạch thuê. Hàng ngày ninh một nồi ngô đỏ , thỉnh thoảng có thêm ít đậu đen. Tôi đi xin rơm rạ về quấn quanh nồi rồi đốt. Cả nhà ngồi ăn , nhai mỏi răng lắm mà chẳng thấy no gì cả .Khi không có ai thuê thì Thầy tôi gánh hàng đi bán các con tò he (tò te), mà bán các con giống bằng bột này thì không được đi nhanh, nếu không nó xô vào nhau thì hỏng hết hàng.

Một hôm hai bố con đi bán hàng qua chỗ chợ Lầm, thì gặp một ông thuốc lào quen. Mọi khi Thầy tôi vẫn vào đấy ngồi hút điếu thuốc . Hôm đó lúc đi qua ông hàng thuốc đó mời : “ Hôm nay có thuốc ngon lắm , ông vào xơi một điếu ’’. Nhưng lần này Thầy tôi bảo : “ Thôi , hôm nay tôi bận , còn phải vội đi bán hàng’’.Hai bố con tôi vừa đi khỏi chợ độ một quãng, thì máy bay khu trục của giặc Pháp nó đến bỏ bom , bắn phá chỗ chợ, mà máy bay nó đến nhanh lắm, hai bố con tôi nằm nấp ở vệ đê, tôi còn nom rõ cả thằng phi công, sợ chết khiếp.Lúc sau khi đã yên ắng , hai bố con tôi quay lại chỗ chợ thì thấy quang cảnh tan hoang , còn ông bán thuốc lào đã bị chết nằm gác chân lên cái khay thuốc.Thầy tôi bảo : “ May quá , hôm nay thầy mà ngồi đấy hút thuốc thì chết cả hai bố con rồi’’.

Vào khoảng cuối năm 1949 nhà tôi chẳng còn đồng tiền nào , tôi với anh Mẫn hàng ngày đi mò cua , bắt ốc kiếm thức ăn. Quần áo chẳng có và rách nát hết, hai anh em đều ở trần , anh tôi chỉ đóng mỗi chiếc khố đi mò cua , rồi xin người ta được một chiếc bao tải cắt ra khoác lên người thay áo.

Thầy tôi thấy các con khổ quá mới quyết định trở về làng . Nhà tôi là về muộn nhất. Khi về chỉ còn cái xác nhà .May có nhờ nhà ông Lang Phong cũng tốt, giúp cho gia đình tôi ít đồ dùng, quần áo.

Năm 1950 bà cụ đẻ cô Lê, cô con gái thứ ba và cũng là cô con gái út.

Thân thế và cuộc đời (10/18)



Từ những năm 1940 , cụ Nguyễn Đức Cần đã chữa bệnh giúp cho nhiều người.

Lúc đầu cụ chữa trị bệnh cho những người trong họ tộc thân quen , nhưng sau đấy do chiến tranh loạn lạc , cuộc sống của gia đình cũng bị cuốn trôi theo dòng thời cuộc.Kể từ sau khi hồi cư về Hà Nội năm 1950 , khi công việc trong gia đình đã ổn định , cụ bắt đầu nhận chữa rộng rãi , nhiều người đã biết đến danh cụ, người bệnh từ nhiều nơi tìm đến cửa cụ để xin chữa bệnh. Phương pháp chữa bệnh của cụ rất đặc biệt : người bệnh hoặc người nhà bệnh nhân đến gặp cụ , nếu được cụ nhận lời hoặc cụ cho một mảnh giấy có chữ ký của cụ mang về , thì bệnh có thể khỏi. Cụ chữa bệnh không dùng thuốc và Cụ có thể chữa bệnh từ xa .Cụ chữa nhiều loại bệnh như : Điên , ung thư , đau dạ dầy , sơ gan cổ trướng , máu trắng , thấp khớp , vẩy nến , phù thận , méo mồm, trĩ, uốn ván ,áp huyết, tim, liệt tay,câm, điếc, hen , đẻ ngược, viêm não…..

Bà An Thị Phú, sinh năm 1924, hiện ở tại làng Hữu Tiệp, Hà Nội là một người cháu gọi cụ Nguyễn Đức Cần bằng chú, kể lại : Tôi còn nhớ lúc tôi độ 15, 16 tuổi ( khoảng năm 1939), tôi bị một trận sốt thương hàn, tôi bị sốt hơn hai mươi ngày, người gầy và mệt lắm. Chú tôi ( cụ Nguyễn Đức Cần) đến nhà chữa bệnh cho tôi. Lúc đó tôi ốm nằm quay mặt vào trong , ông cụ đến chữa bệnh, không thấy cho thuốc gì cả, chỉ thấy ông cụ nói thứ tiếng gì đó.Sau đó thì tôi khỏi bệnh và đi bán hàng hoa ở chỗ trước cửa nhà GODART Bờ Hồ.

Lần khác, tôi bị bệnh rức đầu, đau đầu lắm không thể nào chịu được, tôi vào nhờ ông cụ chữa, cụ cho tôi một tờ giấy và dặn về để trên đầu.Từ đó, tôi khỏi bệnh ngay, tôi thấy không có tý gì là mê tín dị đoan cả. Ông cụ không cúng lễ, không lấy tiền của ai, ngay như tôi khi khỏi bệnh cũng chẳng biếu thứ gì đâu. Nhưng không phải ai ông cụ cũng nhận chữa. Ông cụ nói với tôi là : “ Ai vào đến cổng nhà tôi, ai có đạo đức hay không có đạo đức là tôi biết hết”.

Ông Nguyễn Văn Nhâm , ở xóm Hồng , xã Khương Đình ngoại thành Hà Nội nhớ lại : Vào văm 1951 , vợ tôi ( Bà Nguyễn Thị Sở ) sau khi sinh đứa cháu gái đầu lòng bị chết thì nhà tôi bị điên , nói lăng lảm nhảm , rồi nhà tôi leo lên cây, lội cả xuống sông Tô Lịch. Gia đình tôi đi chữa hết cả mọi nơi, bác sỹ tây , bác sỹ ta , vào bệnh viện Phủ Doãn , bệnh viện Bạch Mai giốt nhà tôi vào buồng riêng tiêm thuốc cũng không khỏi. Người ta mách ở đâu có ông thầy nào là đi hết , đến khi hết tiền và chẳng còn hy vọng nào có thể chữa được nữa.Thật may , lúc đó nhà tôi có bà dì tu ở chùa Hàng Cót, những khách thập phương đến lễ , nói chuyện với nhau là ở làng Đại Yên có cụ Trưởng Cần chữa được nhiều bệnh cho nhân dân ốm đau nguy hiểm mà thuốc thang ở đâu cũng không chữa được , mà đến cụ lại chữa được.Bà sư ấy bảo : “ Để dì đưa lên nói với cụ , xem cụ có chữa được không ?’’.

Lúc chúng tôi lên, thấy nhà cụ , người đến xin chữa bệnh đông như kiến cỏ . Tôi và bà dì vào nhà thưa với cụ , xin cụ giúp cho , lúc bấy giờ nhà tôi cứ sắn quần chạy vùng quanh sân nhà cụ như con ngựa lồng .Cụ bảo nhà tôi vào trong nhà ngồi. Cụ nói : “ Nếu mà cô chú đã đi nhiều nơi mà tiền nong không còn nữa , thì để tôi giúp’’.Cụ dạy, ở đây không phải cúng lễ , không phải thuốc thang , yên chí cứ về đi , cụ nhận , cụ chữa cho.

Cụ cho một mảnh giấy để làm tin và cụ dặn để trong người cho cô ấy , cho thần kinh cô ấy ổn định. Sau khi về thì nhà tôi không nói linh tinh nữa , tuy vậy người còn ngơ ngẩn, tôi lại lên xin cụ , khoảng bốn tháng sau thì nhà tôi tự đi lên xin cụ và chưa đến một năm thì nhà tôi khỏi hẳn.

Tôi thấy cụ chữa bệnh rất kỳ lạ, không thấy cụ cho thuốc, cũng không cúng lễ chiêng trống vàng mã tốn kém, thế mà bệnh lại khỏi.

Sau khi nhà tôi khỏi bệnh , chúng tôi lên cụ tạ ơn. Tôi đưa 20 đồng tiền Đông Dương , không dám nói là để trả ơn mà gọi là xin cụ tạ lễ.Cụ cười và nói : Thôi , tôi cho cô chú mang về làm vốn , để làm ăn sinh sống mà nuôi nhau, không phải tạ lễ ai cả .Cụ dạy chúng tôi : Cụ chữa bệnh cho có sức khỏe thì về làm ăn lương thiện , chân chính , đừng làm các việc phi pháp , theo được như thế thì cụ mới công nhận cho lên cửa cụ.

Chúng tôi nghe theo lời dạy của cụ, làm ăn lương thiện bằng sức lao động của mình. Sau này nhà tôi sinh được tám cháu đều nuôi được cả, mỗi khi ốm đau cứ lên xin cụ , thế là mọi bệnh đều khỏi hết.

Thân thế và cuộc đời (11/18)

Cụ chữa bệnh và còn bài trừ mê tín dị đoan , Cụ đã giải đồng cho biết bao người .Vì cụ cho đồng bóng là mê tín.Cụ dạy : Làm người phải ăn ở có đức thì mới được đẹp, sinh sống hàng ngày phải lao động cần cù, phong tục tập quán thì nước nào cũng có, còn mê tín dị đoan thì nên bỏ.

Cụ hết lòng thương yêu , cứu chữa bệnh nhân , có khi đêm khuya , cụ còn đi đến các làng như Thạch Bàn , Kim Quan, Văn Đức , Hoàng Mai …để cứu chữa bệnh nhân, thực hiện “cứu bệnh như cứu hỏa’’.

Chữa bệnh thì tận tâm vất vả như vậy , nhưng cụ không hề. lấy của ai một xu nào. Bệnh nhân khỏi là cụ vui mừng. Cụ dạy : Người nghèo đã ốm thì tiền nuôi con cái cũng chẳng còn, vậy tiền đâu mà trả ông thầy, hơn nữa tôi chữa bệnh không cần thuốc, không mất vốn , mà bản tâm không muốn bóc lột người bệnh , nên tôi không lấy tiền .

Cụ còn đi quyên áo rét được hơn 400 chiếc cho người mù và người nghèo ở chợ Mơ , Hoàng Mai – Hà Nội. Cụ Nguyễn Đức Cần từng nói : Đời tôi sống hơn 70 năm trời chịu bao nhiêu đau khổ , cay đắng, mà tôi vẫn chịu được để làm việc cứu đời .

Thời kỳ những năm 1955 – 1956 là những năm cụ và gia đình gặp phải những nạn lớn . Sau khi, cụ có đứa cháu nội đầu tiên được ít ngày thì người con trai trưởng của cụ là ông Nguyễn Văn Mẫn gặp nạn đột ngột qua đời, cũng trong thời gian đó ở miền bắc tiến hành cải cách ruộng đất. Cụ bị mang ra đình làng đấu tố, lúc đầu cụ bị quy kết là địa chủ, nhưng ruộng đất nhà cụ không có nhiều, lại không bóc lột, thuê mướn ai, vì chính cụ lao động hai nắng một sương ,cày cuốc chăm lo vườn tược rau màu .Sau họ lại chuyển sang quy cụ là phản động thân Pháp , nhưng cụ không tham gia tổ chức phản động nào, ngoại trừ lúc tham gia cách mạng tháng 8, nhưng cụ cũng không khai báo thành tích lúc kháng chiến và những đồng chí cùng hoạt động lúc đó , người thì hy sinh, người thì bận công tác ở xa.

Bà Nguyễn Thị Chuyên, con gái lớn của cụ kể : Ngày địch tạm chiếm Hà Nội, thầy tôi vẫn hoạt động bí mật trong thành . Một hôm lính Pháp vây bắt, mấy người Việt Minh chạy trốn vào nhà tôi, thầy tôi chỉ cho họ nấp sau vườn nhà và sai tôi đứng canh ở cửa bếp , còn ông cụ đứng ở cửa nhà trên. Khi tốp quân Pháp sộc vào nhà , cụ mời họ vào uống rượu và nói chuyện . Trong toán lính Âu Phi đó có viên chỉ huy biết cụ , vì cụ đã chữa khỏi bệnh cho vợ anh ta. Toán lính uống rượu xong thì đi ra , không lục soát gì hết, thế là mấy người cán bộ kia thoát chết. Thế mà khi cải cách, chính họ lại đứng ra tố cáo cụ là phản động thân Pháp . Thật là làm ơn mắc oán.Cụ bị kết án bẩy năm tù và bị đưa đi lao động tại trại Đá Bàn, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái.

Bà Chuyên kể lại : Khi ông cụ bị đi trại, tôi mới 18 tuổi, tôi cùng đi với hai bà vợ địa chủ lên thăm . Chúng tôi đi xe hỏa đến Yên Bái, rồi phải đi xe ngựa mất một ngày mới đến trại . Hai bà đi cùng, đến thì được gặp ngay người nhà , còn tôi phải chờ, vì ông cụ phải đi lao động mãi tận trong rừng sâu.

Được hai ngày , thì hai bà kia đòi về, vì thấy ở lại đây buồn quá, người chết , người khóc vì tù đày rừng thiêng nước độc . Tôi phải chắp tay xin , nói với họ chờ thêm một ngày nữa. Đến ngày thứ ba, mãi đến hai giờ chiều thì hai bố con mới được gặp nhau . Khi tôi được gặp ông cụ, cả hai bố con đều khóc . Tôi thương ông cụ quá , người gầy và đen lắm , họ chỉ cho gặp 15 phút, thấy tôi mang theo nón cụ bảo : Cho thầy chiếc nón để đội đi lao động .

Đồ tiếp tế thì có gì đâu, chỉ có vài cái bánh mỳ và một ít muối vừng thôi .Ông cụ chỉ hỏi qua vài câu, tôi thì nghĩ vẩn vơ, cụ bị tù bẩy năm chắc gì còn sống mà trở về với gia đình , bao nhiêu người trẻ khỏe mới lên, mà đã chết ở nơi rừng thiêng nước độc này.

Sau này vào năm Canh Thân 1980 , có một gia đình bệnh nhân mang lên biếu cụ năm con khỉ vàng đang chắp tay lễ, bằng sứ, bé bằng ngón tay út , cụ cho gắn lên hòn non bộ trong sân nhà và cụ kể lại câu chuyện : Hồi ở trại , lúc cụ ngồi ăn bánh mỳ ở bên một dòng suối trong rừng vắng thì có một lũ khỉ đứng chầu ở trước mặt, cụ dành một mẩu bánh mỳ bẻ cho chúng, kỳ lạ thay , trước khi nhận mẩu bánh , lũ khỉ đó lại biết chắp tay lễ cụ . Cụ bảo : À , con vật mà lại biết chắp tay là vậy .

Thân thế và cuộc đời (12/18)

Sau khi sửa sai, gia đình cụ được xuống thành phần trung nông , cụ đi trại mất bẩy tháng thì được về . Nhưng ngay sau đó là phong trào bài trừ mê tín. Ở nhiều nơi, các đình chùa biến thành kho của Hợp tác xã, thậm chí có nơi các câu đối thì bị mang ra làm cầu ao, ngay cả việc thắp hương thờ cúng cũng bị coi là mê tín . Cụ cũng buộc phải dỡ điện thờ mẫu trong sân nhà . Cụ mang bát hương công đồng lên đặt tại Đền Và , Sơn Tây.

Hôm đó lại là một ngày hội , lúc đầu những người trông coi ngôi đền không đồng ý , cụ nói : Thôi được , tùy các ông thôi . Nhưng khi cụ bước ra đến sân đền , thì một cơn giông bỗng kéo đến , mây đen phủ kín bầu trời và gió mạnh từng cơn làm rung chuyển ngôi đền, trời đất như muốn nổi giận . Biết đó là một điềm trời , bảy ông từ trông đền, mặc áo thụng xanh , sợ hãi vội vã chạy ra và mời cụ trở lại . Khi bát hương cụ đặt tại chính điện đã yên vị , thì trời lại quang minh sáng tỏ và lạ thay bao nhiêu chim rừng từ đâu kéo đến đậu đầy trên những ngọn cây trong khu đền và líu lô hót mừng .

Rồi cụ trở lại Đại Yên , nhưng chỉ ít ngày sau , cụ bỏ nhà ra đi với bao điều trăn trở, băn khoăn : Sao làm việc phúc giúp đời mà lại gặp nhiều cay đắng đến thế ? Có nên tiếp tục làm việc chữa bệnh giúp đời nữa hay không ?.Hay là đến nơi nào đó, thâm sơn cùng cốc, xa lánh cõi đời.

Nhưng cũng phải nói rằng, rất nhiều người bệnh, những người chịu ơn đã không bỏ cụ trong những ngày vô cùng khó khăn đó . Họ đã đi theo cụ trong từng bước chân, để xin cụ tiếp tục trở về chữa bệnh cứu đời. Những ân tình sâu nặng đó có lẽ cũng làm nguôi đi bao đau đớn trong lòng cụ và làm cụ cảm động .

Sau ba tháng, cụ trở lại Đại Yên .Lúc này đang có phong trào Hợp Tác xã, cụ tham gia vào làm xã viên . Hàng ngày cụ dậy từ 5 giờ sáng đi làm vườn tưới rau , lúc cuốc đất, lúc kéo xe bò, thậm chí ra tận bờ sông để vác nứa , cụ gánh nước rất khỏe , một lúc bốn thùng gấp đôi người khác, khi cuốc vườn vào chỗ đất rắn , bọn thanh niên toàn nhờ cụ làm giúp , mà cụ toàn nhịn đói, không ăn sáng bao giờ cả.

Bà Tuyên, con gái cụ kể lại : Hồi thầy tôi làm xã viên , ông cụ đi làm từ sớm tinh mơ cho đến chiều tối , công việc làm vườn vất vả lắm . Tôi nhớ những lần hai bố con phải đi lấy phân bắc , thầy tôi kéo xe bò đằng trước áo ướt đẫm mồ hôi , tôi cặm cụi đẩy xe đằng sau , mùi phân gio hôi hám lắm , thế mà ông cụ chẳng nề hà gì , tôi thấy thương ông cụ quá ....Mỗi khi bình bầu xã viên , cụ luôn luôn được bầu là lao động xuất sắc , sau giờ làm việc cụ lại trở về nhà , tiếp tục chữa bệnh cho mọi người.

Hiện nay trong nhà cụ vẫn còn giữ được bức chân dung ngày ấy .Cụ mặc bộ quần áo nâu, vai vác cuốc như một lão nông chi điền.

Năm 1958 , cụ tổ chức đám cưới cho bà Chuyên ( Tuyên) , người con gái lớn. Đến làm rể cụ là ông Nguyễn Văn Tiến một cán bộ đã tham gia cách mạng , công tác tại Ban kinh tài trung ương . Sau này hai ông bà sinh được ba người con gái .

Năm 1967, cụ gả chồng cho người con gái thứ hai ( bà Nguyễn Thị Sinh ) . Người con rể thứ hai của cụ là một chiến sỹ quân đội, ông Nguyễn Văn Ảnh ở xóm Bến làng Thanh Mai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây ( cũ ).Sau khi lấy nhau đã bốn năm mà vẫn chưa có con , làm hai vợ chồng ông Ảnh lo lắng . Cụ dạy, có sức khỏe thì hãy xây dựng kinh tế cho tốt đi đã . Đến năm thứ sáu, hai vợ chồng ông Ảnh đã có nhà cửa vườn ao đàng hoàng và sau đó họ sinh được 4 người con trai khỏe mạnh .

Từ những năm 1970 , khi cụ đã hết tuổi lao động , cụ xin nghỉ không tham gia lao động trong Hợp tác xã nữa , lúc này cụ dành nhiều thời gian để chữa bệnh giúp nhân dân , danh tiếng của cụ đã lan xa đến nhiều nơi , hàng ngày có đến hàng trăm người bệnh đến xin cụ chữa , thậm chí có những ngày do quá đông khách , ban đêm người bệnh trải chiếu nằm ngoài cổng ngõ xóm để chờ xin cụ chữa bệnh.

Thân thế và cuộc đời (13/18)

Đầu năm 1974 , được phép của Ủy ban khoa học nhà nước, ông Nguyễn Phúc Giác Hải, cán bộ nghiên cứu sinh vật học đã đến Đại Yên gặp cụ để nghiên cứu phương pháp chữa bệnh của cụ.Ông đã tiếp cận cụ và được cụ cho phép gặp gỡ phỏng vấn các bệnh nhân đã được cụ chữa khỏi.

Ngày 26 tháng 4 năm 1974 , ông Nguyễn Phúc Giác Hải đã báo cáo trình bầy vấn đề này theo yêu cầu của Bộ Công an. Ngày 30 tháng 4 năm 1974 có thể gọi là ngày đánh dấu của Khoa học ngoại cảm ở Việt Nam, các cơ quan chức năng đã tiến hành quay phim hai ca chữa bệnh của cụ, các bác sỹ phản biện đã phát biểu công nhận việc chữa bệnh của cụ đã có kết quả ban đầu.

Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương đã phát biểu: Cụ Nguyễn Đức Cần có một khả năng kỳ diệu và phương pháp chữa bệnh hoàn toàn mới và rất thần tình,mặc dầu chưa giải thích được,là một tồn tại khách quan,không thể phủ nhận được.

Nhưng sau đó giới y tế cho rằng việc chữa bệnh này là tự kỷ ám thị , người bệnh khỏi là do ngấm thuốc .Họ đòi hỏi cụ muốn chữa bệnh phải có giấy phép, mà không biết cơ quan nào đứng ra cấp cho cụ giấy phép này.

Cùng trong năm 1974 , trung tướng Phạm Kiệt, thứ trưởng thứ nhất Bộ công an đã viết một bức thư gửi đến các cơ quan liên quan và một bức thư cảm ơn Cụ Nguyễn Đức Cần.

Kính gửi Cụ Trưởng Cần

Trong thời gian cụ còn được chữa bệnh , tôi có đến với Cụ một vài lần tuy chưa được Cụ chữa bệnh chính thức, nhưng một số bệnh thần kinh như huyết áp được xuống, ngủ được , không phải dùng thuốc ngủ ,đường ruột co bóp tốt hơn, còn bệnh chính thì thật là nan giải, nhưng sau đó Cụ bị cấm không chữa bệnh , từ đó tôi không được chữa bệnh nữa , nhưng mỗi khi đến với Cụ thì thấy trong người dễ chịu hơn . Bây giờ điều mà tôi mong muốn là Bộ Y tế, Sở Y tế Hà Nội, Cơ quan khoa học nhà nước với các đồng chí có chức trách nên nghiên cứu lại và để cho Cụ được chữa bệnh cho đồng bào một số bệnh mà khả năng của Cụ đảm đương được . Đó là điều làm tốt không có gì trở ngại theo sự hiểu biết cá nhân của tôi.


Cuối thư chúc Cụ sức khỏe và mong sớm muộn có ngày Cụ sẽ được chữa bệnh cho nhân dân là điều tốt nhất.


Cảm ơn Cụ.
Ký tên – Phạm Kiệt.


Cụ nghỉ chữa bệnh và treo một chiếc biển trước cổng nhà “ Không chữa bệnh, miễn vào”. Cụ đi chơi , đến thăm nhà các bệnh nhân .Gia đình mời cụ đến thăm đầu tiên là gia đình Cụ Khuất Duy Tiến , nguyên Chủ tịch Ủy ban hành chính kháng chiến thành phố Hà Nội. .

Vào năm 1961 – 1962 cụ Tiến bị rối loạn thần kinh, hoàn toàn không thể làm việc được nữa . Đến năm 1973 thì gia đình biết Cụ Nguyễn Đức Cần và lên Cụ để chữa và từ đó cụ Tiến tỉnh táo và bắt đầu hiểu biết những người chung quanh .Sau đó, cụ Khuất Duy Tiến lại bị năm cái gai đôi mọc ở gáy làm cho mất ngủ , đau đớn. . Gia đình lại đưa cụ Tiến lên Đại Yên xin chữa bệnh và khi về thì chỉ năm ngày sau hoàn toàn năm gai đôi biến đi , Cụ Tiến đã ngủ được và khỏi bệnh.

Thân thế và cuộc đời (14/18)

Từ đầu tháng 4 năm 1975 , quân dân ta tiến công trong mùa xuân lịch sử với khí thế thần tốc , bất ngờ , táo bạo và chắc thắng . Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 các hướng tấn công của đại quân ta đều nhắm tới Sài Gòn nơi tập trung các cơ quan đầu não của ngụy quyền. Giờ phút lịch sử của dân tộc ta đang bước vào một trang mới : Kỷ nguyên của đất nước độc lập thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trong buổi sáng lịch sử đó ,cụ đã bảo anh Lê Quang , một bệnh nhân đang có mặt tại nhà cụ : “ Chú hãy treo cờ Tổ quốc lên , mừng cho non sông liền một dải ”. Nhìn lá cờ đỏ sao vàng tung bay trong rực rỡ nắng vàng , nét mặt cụ rạng ngời xúc động . Có lẽ đây là một trong những lá cờ Tổ quốc được treo lên sớm nhất trên mảnh đất Hà Nội , trong niềm vui chiến thắng của dân tộc ta , kết thúc vẻ vang quá trình 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ Quốc ( 1945 – 1975 ).

Từ những năm 1980 trở đi , công việc chữa bệnh giúp dân của Cụ có nhiều thuận lợi hơn . Người đến xin cụ chữa bệnh có cả những cán bộ cao cấp trong trung ương , các tướng tá trong quân đội , công an , các văn nghệ sỹ , các bậc lão thành cách mạng và đông đảo bà con nhân dân lao động .

Ngày 27 tháng 6 năm 1982 , phóng viên Minh Đăng Khánh , báo Sài Gòn giải phóng, phỏng vấn Cụ Nguyễn Đức Cần tại Đại Yên .

Trong buổi phỏng vấn cụ đã nhấn mạnh : “ Đức là gốc của con người . Nếu anh sửa mình được thì dù nghèo cũng không khổ . Giàu mà cái gốc không còn, đức hết, anh khổ cũng là tại anh ”.

Cuối cuộc phỏng vấn cụ nói : “ Tôi chữa bệnh không lấy tiền, như vậy tôi đã làm lợi cho dân. Đó là điều làm tôi sung sướng. Tôi chỉ muốn mọi người có cơm no, áo ấm, không bị ốm đau , thế thôi ’’.

Cụ Nguyễn Đức Cần đã từng nói rằng : Chính tu là cái đức của mình, biết thương người , mình chịu khổ thì mới thương người , còn mình sướng thì biết thương ai. Nói đức mà chỉ nói cái mồm, thì ai chả nói được . Cho nên thương thật thì ít lắm.

Nhạc sỹ Tu My Đỗ Mạnh Cường khi viết xong bài hát Giọt nước mắt để tặng Cụ đã kể lại rằng : khi lên cụ , ông đã chứng kiến bao câu chuyện cảm động về tình thương của Cụ đối với những người bệnh , những người nghèo khổ đã trải qua bao tháng năm ốm đau hoạn nạn, nay được cụ chữa khỏi những căn bệnh nan y, không biết lấy gì tạ ơn, dành dụm được ít tiền mua được chút quà nhỏ để mang lên biếu cụ ,có khi chỉ là miếng ăn hàng ngày như một vài bìa đậu phụ hay một miếng chả, nhưng cụ nhất quyết không nhận . Cụ bảo : Ông nhận rồi , thôi mang về cho các con ăn.Chúng nó đang mong ở nhà.

Lại một người nghèo khác , khi được cụ chữa khỏi bệnh ,chỉ mang lên biếu cụ một khúc sắn giây luộc, lần đó thì cụ nhận ,nhưng bảo cắt ra chia cho mỗi người đang có mặt tại đó, mỗi người một miếng . Cụ bảo : Đây là cả tấm lòng của người ta .

Những giọt nước mắt đã tuôn rơi, tuôn rơi trên những khuôn mặt dịu hiền trước tình thương của cụ.Cuộc đời của họ đã nhờ cụ cứu giúp ,đã vượt qua những cơn hiểm nguy.

Thân thế và cuộc đời (15/18)

Ông Đinh Văn Hợp ở Phúc Tân , Hà Nội kể : Tôi có người con bị ung thư , đầu năm 1972 cháu điều trị ở bệnh viện K , về nhà sáu tháng lại bị đau ở cạnh sườn .

Cháu bị chướng bụng khó thở , ăn không tiêu và bụng ngày càng to thêm .Bệnh viện bảo cháu bị di căn chạy vào gan không chữa được nữa , chỉ chờ ngày một, ngày hai chứ không lâu , thèm gì cứ cho cháu ăn.Khi viện cho về nhà, gia đình họ hàng đều chán ngán , người khóc om sòm. Lúc ấy bà con hàng xóm đến thăm mách bảo lên cửa cụ , gia đình tôi lập tức lên ngay.Tối hôm đó bẩy người anh em, bố mẹ họ hàng thuê một xe xích lô khiêng cháu vào tận nhà cụ . Không may trời tối hôm đó trời mưa như tầm như tã, mọi người đều ướt sũng. Còn cháu thì mê man không biết gì nữa. Thấy cảnh tượng như thế cụ rất thương và đã nhận cứu cháu. Từ đó cháu về dần dần tỉnh , mấy hôm sau bụng cháu dẹp hẳn đi, chân tay nhẹ nhõm , rồi cháu đã ăn được hai , ba lưng cơm. Nay cháu đã khỏe mạnh là nhờ lòng thương nhân đạo của cụ.

Lệ tục là ngày rằm và ngày mồng một đầu tháng là ngày lễ Giời ,lễ Phật, nên gia đình không biết lấy gì đền đáp công lao của cụ.Nhưng cụ không cho mang lễ bái gì cả .Vậy vợ tôi nghĩ , lòng thành mua thẻ hương rồi nhét 20 đồng vào thẻ hương. Đến sáng ngày 16, cụ thấy trong thẻ hương có tiền, cụ đi ra chỗ Cột đồng hồ ( phố Trần Nhật Duật ) đón tôi đi làm để cụ giao trả.Cụ đã mất công đi như thế mà không gặp. Cụ phải nhờ một người ở phố Mã Mây đem xuống tận nhà trả lại , cụ viết thư bảo : Nhà nghèo tiền ấy để mua thêm thức ăn bồi dưỡng cho cháu, cụ thương những người nghèo , cụ chữa giúp , nhưng cốt phải có đạo đức .

Một gia đình ở phố Hàng Trống , khu phố Hoàn Kiếm , Hà Nội kể :Hồi tháng 8 năm 1979 , cháu trai lớn của gia đình tôi da bị vàng úa , sau dần da cháu bị bạc trắng, môi nhợt , cháu chuyển từ bệnh viện Hai Bà Trưng đến bệnh viện Xanh Pôn bệnh tình không đỡ mà ngày thêm nặng, chân tay bị phù , mắt nặng , bụng to rắn như đá, gia đình khóc lóc van xin các bác sỹ cứu chữa cho cháu . Các bác sỹ chuyên khoa cho biết là cháu bị bệnh máu trắng, rất ít hy vọng .

Gần Tết Nguyên Đán gia đình đưa cháu lên Đại Yên , ăn mày cửa cụ. Cụ dặn :
Cứ về đi , cụ thương , cụ sẽ giúp. Sau khi cháu về nhà mấy tiếng đồng hồ, chân tay cháu deo cả lại, mặt đã bớt nặng.Hôm sau gia đình lại lên xin cụ , cụ bảo rằng : “ Cứ về đi, tôi sẽ cho cháu khỏi hẳn ”.Quả nhiên đến Tết thì cháu khỏi hẳn phù, bụng mềm lại , da dẻ mặt mày hồng hào.Cụ chữa bệnh thật như thần thoại, không cúng bái , tiền nong

Có bài thơ ca ngợi rằng :

“Quất tỉnh trùng lâm thế
Nam thiên xuất Dị nhân
Huyền công tham tạo hóa
Trước thủ tiện thành xuân ”

Dịch nghĩa :

Thày hay cùng xuống ở đời
Trời Nam nay mới sinh thời Dị nhân
Huyền công Tạo hóa dự phần
Động tay tức khắc bệnh lành phút giây .

Thân thế và cuộc đời (16/18)


Ngày 13 tháng 8 năm 1982, nhạc sỹ Tu My – Đỗ Mạnh Cường , sáng tác bài hát “ Sao rực sáng làng hoa ’’ kính tặng cụ.Sự nghiệp của nhạc sỹ Tu My gồm có một số nhạc tình lãng mạn, một thời đã được công chúng biết đến và yêu thích như Nhạc Lòng, Chia Ly, Hận Tình hay Tan Tác (trước năm 1954)… cùng một vài bài ca quê hương và xã hội như Hà Nội 55, Uống Nước Nhớ Nguồn, Thư Gửi Miền Nam, Nhắn Bạn Phương Nam. Có thêm những bài về một nhân vật nào đó như Phạm Ngọc Đa, Nguyễn Đỗ Hùng, Sao Rực Sáng Làng Hoa (tặng cụ Nguyễn Đức Cần)...

Nhưng vì ông là người giảng dạy nhiều năm tại nhiều trường phổ thông và còn là người dàn dựng các chương trình biểu diễn âm nhạc trong các sinh hoạt học sinh cho nên ông có nhiều ca khúc thiếu nhi hơn là nhạc quê hương hay tình khúc. Xin đan kể : Bài Ca Gia Đình, Ông Thân Yêu, Học Vì Ngày Mai, Bông Sen Trắng…

Là một nhạc công tài hoa, biết xử dụng nhiều nhạc cụ như accordeon, piano, guitare, violon, saxo alto, flute… ông đóng góp rất nhiều vào phong trào âm nhạc quần chúng tại Hà Nội.

Gia đình ông Tu My trước đây ở tại số 20 phố Nguyễn Văn Tố , Hà Nội . Ông Tu My bị bệnh tim ( rối loạn nhịp tim), ông lên Đại Yên xin cụ Nguyễn Đức Cần chữa bệnh . Ông thường “ khoe ’’ với mọi người về tờ giấy ( đạo) của cụ cho mà ông luôn đeo ở trong ngực áo . Từ ngày gặp cụ , trái tim ông đã trở lại khỏe mạnh với nghịp đập bình thường . Rung cảm trước tài năng và đức độ của cụ , nhạc sỹ Tu My – Đỗ Mạnh Cường đã sáng tác khoảng 16 bài hát để kính tặng cụ , như : Sao rực sáng làng hoa , Ông thân yêu, Du Xuân , Vườn ngọc nở hoa , Giơ tay lên, Giọt nước mắt …..

Ngày 2 tháng 9 năm 1982, luật sư Đỗ Xuân Sảng, một trí thức có tiếng ở Hà Nội cùng một số phóng viên Thông tấn xã lên Đại Yên thăm cụ. Họ rất ngạc nhiên khi thấy vào đúng ngày rằm tháng bẩy, mà trên nhà cụ không thấy làm lễ cúng bái gì cả . Sau khi tiếp chuyện cụ, các vị khách ngỏ lời xin được chụp ảnh chung cùng với cụ. Lúc đầu cụ cảm ơn và nhẹ nhàng từ chối, sau mọi người cứ nằn nì mãi . Cụ bảo : Thôi được tùy các ông thôi. Thế là hai phóng viên thi nhau trổ tài chụp lia lịa . Mấy ngày sau , có một người trong đoàn khách lên thưa chuyện với cụ là lại quá , không hiểu sao cả hai cuộn phim chụp cùng cụ hôm ấy, khi rửa thì lại trắng phớ, chẳng được ảnh nào . Cụ cười nói rằng : Hóa ra máy cũng bị mù à .

Thân thế và cuộc đời (17/18)


Đêm 30 Tết Quý Hợi năm 1983, như thường lệ, trên nhà cụ không khí đón Tết thật hân hoan náo nức . Cụ cho trồng trước nhà một cột pháo cao khoảng 4 – 5 m , trong hai bồn hoa dưới tán hai cây vạn tuế trước sân nhà cụ , nổi bật hai dòng chữ  “ Hạnh Phúc ’’ được cắm bằng hàng trăm bông hoa cúc vàng tươi.

Những bệnh nhân , người từ bốn phương nhưng yêu thương nhau như con cùng một mẹ , tụ họp về đây , chung quanh cụ và nghe cụ chúc Tết.


Những đêm 30 Tết trước đó , đến đây có các bệnh nhân ở Hà Nội , rồi ở các tỉnh về, thậm chí có những người ở miền Nam ra, có những người ở nước ngoài về , có những người theo đạo Thiên Chúa , những người theo Phật giáo , những nhà sư quần áo nâu sồng , có những sỹ quan quân đội , những văn nghệ sỹ …tất cả anh chị em bệnh nhân , những người chịu ơn cụ nhìn nhau với ánh mắt trìu mến và tất cả ngước mắt lên cụ và chờ đợi lời chúc Tết của cụ .

Nhạc sỹ Tu My – Đỗ Mạnh Cường đã sáng tác nhiều bài hát để kính tặng cụ và các nghệ sỹ , những bệnh nhân cất cao tiếng hát chúc mừng cụ trong thời khắc thiêng liêng của giao thừa sắp đến .

Có thể nói là ở Việt Nam mình , cũng như ở trên khắp thế giới không có một nơi nào có một phong tục đẹp , đặc biệt như thế . Nó biểu hiện lòng biết ơn của bệnh nhân, tình thương yêu nhau giữa những người bệnh , lòng biết ơn đối với vị Thầy đã cứu, chữa bệnh cho mình, cho gia đình mình .

Ngày mùng 8 Tết Quý Hợi , Cụ tổ chức đi du xuân Đền Và - Sơn Tây, đi theo cụ có khoảng 500 bệnh nhân, những người chịu ơn .Đền Và là nơi hàng năm cụ hay đến thăm và là ngôi đền thiêng liêng với cư dân Việt cổ đã hàng ngàn năm nay.

Đầu hè, đại tá không quân Lưu Huy Chao, anh hùng lực lượng vũ trang lần thứ hai đến xin cụ chữa bệnh .Sau khi khỏi bệnh, anh hùng Lưu Huy Chao xin được chụp ảnh cùng cụ , trong bộ quân phục đại lễ . Đây là bức ảnh cuối cùng cụ đã chụp với bệnh nhân. Anh hùng Chao, nguyên là phi công MIC 17, đã bắn rơi 6 máy bay của không lực Hoa Kỳ.

Thân thế và cuộc đời (18/18)

Con gái cụ: bà Nguyễn Thị Sinh và ông Nguyễn Văn Ảnh
(hiện tại đang chăm sóc ngôi mộ cụ ở Thanh Mai)

Ngày 21 tháng 6 năm 1983, sau một cơn giông nhỏ, cây trứng gà trong sân nhà cụ bị đổ nghiêng. Cụ nói “ Thế là hết, dạo này trong người tôi khác lắm ”.

Tối ngày 23 tháng 6, khi nằm nghỉ ở ngoài sân cụ hỏi ông Tiến, con rể lớn của cụ :
- Chú có thấy ngôi sao kia không ? ”.

Ông Tiến trả lời :
- Có , con thấy ngôi sao đó , mọi khi sáng lắm , sao mấy hôm nay trông không sáng mà lại có quầng bố ạ , thế là thế nào hả bố ? .

Cụ bảo :
- Biết vậy , nó sẽ mất , đấy rồi chú xem

Cụ hỏi:
- Hồi ở Việt Bắc, chú có đi nhiều đền chùa không ?

Ông Tiến trả lời:
-Con công tác ở miền núi 34 năm, tất cả các đền chùa của 13 tỉnh miền núi, con đều vào lễ và thắp hương, có những ngôi đền ở sâu trong rừng, không ai dám vào, mà con vẫn vào lễ, có khi dấu chân hổ còn mới , mà con chẳng sợ gì.

Cụ cười , rồi cụ nói :
- Anh này làm cách mạng mà cũng đi lễ, cũng lạ thật. Chú đi lễ thế là tốt.

Cụ hỏi :
- Chú đã nghiên cứu nhiều sách , chú thấy đạo nào là tốt ?

Ông Tiến trả lời :
-Con đã xem nhiều sách và nhiều quyển sử nói về các đạo, nhưng phần nhiều họ nói một đằng nhưng lại làm một nẻo. Sách thì con cho là hay, nhưng thực tế con lại thấy nó khác, mà ở nước ta không có môn đạo nào cả, mà toàn du nhập ở nước ngoài vào.

Cụ nói :
- Phải, ở nước ta thì không có đạo nào cả, toàn ở nước ngoài vào , như thế mà người đời tin. Đạo là đứng đắn, nhưng chủ yếu là cái tâm, cái đức của mình, tức là cái đầu mình không tham, không thù ghét ai, biết thương người.

Ông Tiến hỏi :
-Bố ơi, với pháp đạo của bố, tại sao lại không trị những người thất đức, mà cứ để nó làm nhục mãi thế ?

Cụ nói :
- Không được, khi tôi xuống núi, thầy tôi có dạy là không được thù ghét ai, nếu thù ghét người ta thì nguy hại lắm, lúc còn trẻ tôi có phi đạo một hai trường hợp, họ bị hại ghê gớm lắm, mà tôi đã phi đạo phạt họ, thì lại không cứu được họ. Cho nên mình làm việc công đức thì không được hại ai, mình phải chịu nhục thì mới tu được, mới cứu đời được.Đời tôi sống hơn 70 năm trời , chịu bao đau khổ, cay đắng đủ mọi thứ mà tôi vẫn chịu được để cứu đời.

Vào 14 giờ chiều ngày 24 tháng 6 năm 1983 , một trận động đất mạnh 6,7 độ Richter , trung tâm tại Tuần Giáo , làm rung chuyển cả thủ đô Hà Nội.

Mấy ngày sau , cụ nói với mọi người : “ Tôi sẽ đi xa , tôi sẽ về một nơi có cánh đồng rộng rãi , xung quanh có nhiều cây cối và không xa ( Hà Nội ) , ai vào cũng được ”.

Mọi người không biết đó là những lời dặn xa xôi , nên ai cũng xin được đi theo cụ .

Tối ngày 2 tháng 7 năm 1983 , Cụ nói với ông Tiến :
- Dạo này tôi yếu lắm , người khác đi nhiều , có lẽ Thầy sẽ đi xa .

Rồi cụ hỏi :
- Chú có thấy ngôi sao đâu không?.

Ông Tiến trả lời :
- Con có thấy , nhưng mờ hơn hôm qua , quầng lại sáng hơn, bố ạ .

Cụ nói :
-Tôi yếu rồi , đừng nói với ai làm cho người ta hoang mang…Tôi nếu qua ngày mùng 4 tháng 6 ( âm lịch ) thì tốt , nếu không thì đi thôi .

Ông Tiến khóc và hỏi cụ :
- Bố ơi thế thì con đau khổ quá, bây giờ làm thế nào hở bố ? Có cách gì không hở bố ?

Cụ nói :
- Đó là mệnh trời, không sao tránh khỏi. Phải bình tĩnh con ạ.

Ngày 3 tháng 7 năm 1983 , cụ bắt đầu mệt , gia đình và một số bệnh nhân họp bàn phân công nhau chăm sóc cụ .

Ngày 6 tháng 7 , những ngày hè năm đó nắng như đổ lửa , trời trong xanh không một gợn mây. Ban ngày thủ đô Hà Nội nhiều nơi bị cắt điện , cái nóng hầm hập làm ai cũng như cảm thấy đang sốt .Mỗi ngày hàng trăm bệnh nhân , những người chịu ơn cụ , nghe tin cụ bị mệt nặng đến thăm , ngôi nhà rộng rãi của cụ bỗng trở nên chật chội . Mọi người đứng bên hiên nhà cụ , lặng lẽ hỏi thăm nhau , trên nét mặt ai cũng thấy sự lo lắng cho sức khỏe của cụ .Ban đêm những người ở lại nằm la liệt trên sân , trong vườn nhà cụ . Cảnh gối đất nằm sương trông thật cảm động . Ai cũng mong ngóng cho cụ sớm khỏe trở lại .

Sáng 11 tháng 7 năm 1983 , cụ bỗng trở dậy như lúc bình thường .Mọi người có mặt lúc đó rất ngạc nhiên và mừng rỡ . Cụ ký hai tờ đạo cho hai gia đình , Cụ nói : Việc tôi giúp cho mọi người đến đây là xong, mọi việc từ nay sẽ khác .

Sáng ngày 13 tháng 7 năm 1983 ( mùng 4 tháng 6 năm Quý Hợi ), cụ khó thở . Đến 19 giờ 4 phút cụ lịm đi một lát , sau lại tỉnh , tim mạch bình thường . Đến 23 giờ 30 tim mạch cụ yếu hẳn và đến 23 giờ 58 phút , Cụ đã trở về cõi trường sinh.

Thật đúng là :

Việc đời cứu giúp đã xong
Gối mây , nhẹ bước thong dong cõi trời

Sáng ngày 16 tháng 7 năm 1983 tại số nhà 86 làng Đại Yên - Hà Nội , gia đình cùng đông đảo bệnh nhân đã trang trọng tổ chức lễ tang cụ Nguyễn Đức Cần.

Buổi sáng hôm đó, trời bổng dưng chuyển mát, mưa bụi nhè nhẹ rơi, hơn một trăm vòng hoa để trong sân nhà, sau mấy ngày nắng hè đã héo rũ, bỗng đột nhiên tươi trở lại.

Trong giờ phút thiên liêng này, nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải đọc lời điếu nói về thân thế và sự nghiệp của cụ và nhấn mạnh: Cụ đã cống hiến suốt đời mình cho sức khỏe và hạnh phúc của nhiều người.

Nhà giáo Vũ Văn Ngọc thay mặt những người chịu ơn ca ngợi công lao trời bể của cụ , bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn của những người bệnh , trước sự ra đi của cụ .

Kính thưa hương hồn cụ Nguyễn Đức Cần.

Thưa các bạn.

Giờ phút này chúng ta tề tựu về đây, kính cẩn nghiêng mình trước thi hài của một người mà tất cả chúng ta tôn kính - cụ Nguyễn Đức Cần, người thầy chữa bệnh cho chúng ta và gia đình ta... Người mất đi để lại trong lòng chúng ta một khoảng trống lớn lao, sự tiếc thương vô hạn, một nỗi đau tê tái, một mất mát không thể gì bù đắp được...

Thầy ta:

Sống chữa bệnh cứu đời, vì nước, vì dân phục vụ
Chết nêu gương trong sáng, vinh hoa phú quý không màng.

Hàng ngàn người bệnh đã chịu tang cụ, chít khăn tang trắng trên đầu đến dự lễ truy điệu và đưa cụ đến nơi an nghỉ cuối cùng tại cánh đồng làng Thanh Mai , huyện Thanh Oai – Hà Tây ( cũ ).

Từ ngày đó đến nay , thấm thoát đã hơn 26 năm trôi qua, nơi cụ an nghỉ đã trở thành một khuôn viên với những hàng cau tươi tốt. Cụ về đây an nghỉ giữa đồng quê thanh bình. Những người chịu ơn cụ , những người biết đến danh cụ thường vẫn về nơi đây , thắp những nén hương thơm ngát để tưởng nhớ, để tri ân cụ - một con người đã suốt đời vì nước vì dân phục vụ.

Hết phần Thân thế và cuộc đời

Hà Nội - mùa thu năm 2009


Bàn thờ cụ Nguyễn Đức Cần đặt tại nhà cụ (86 Làng Đại Yên Hà Nội)