14 tháng 3, 2011

Thân thế và cuộc đời (4/18)

Vùng rừng núi Ba Vì
Đây là lần thứ hai, cậu bé Nguyễn Đức Cần phải xa gia đình . Lần đầu là lúc cậu đi học tại trường An be – Xa rô, phải ở nội trú trong trường. Nhưng thời gian đi học đó thật đầy đủ sung sướng,cậu được ăn ngon , mặc đẹp và được vui chơi cùng các bạn học đồng trang lứa.

Lần đi này là bước vào trường đời .Cậu chưa hình dung nổi con đường trước mặt sẽ như thế nào , nhưng được ở bên cạnh một bậc Minh sư , thì cậu cảm thấy yên lòng, vững dạ và hăm hở lên đường . Lúc hai Thầy trò ra đi, mẹ cậu tiễn đến cổng làng, bà nói với người Thầy : Trăm sự nhờ Thầy dạy bảo cho cháu. Người Thầy cũng rất kiệm lời, nói rằng : Cơ Trời đã định, Đại An sẽ trở về. Rồi hai thầy trò rảo bước lên đường.

Trên con đường thiên lý, hai thầy trò, ngày đi đêm nghỉ. Nơi họ dừng chân, có khi là một quán xá ven đường hay một nếp nhà đơn sơ ở một miền quê nào đó, nhưng cậu thấy bất kỳ ở nơi nào, thầy trò họ đều được đón tiếp thật ấm nồng, như những người khách quý. Qua câu chuyện của chủ nhà , cậu mới hiểu rõ , vị Thầy đây là người ân nhân của họ, đã cứu bệnh cho gia đình họ. Nay được gặp lại Thầy thì ai nấy đều mừng rỡ . Tình cảm của người dân quê thật là mộc mạc chân thành.Nhà nào cũng thiết tha mời thầy ở lại, nhưng hai thầy trò chỉ dừng chân một đôi ngày, rồi lại lên đường.

Một buổi chiều kia , hai thầy trò dừng chân ở một miền quê vùng trung du, còn chưa biết đêm nay sẽ nghỉ ở đâu, thì bỗng thấy phía trước một ngôi cổ tự. Thật may, vị sư chủ trì ngôi chùa đó lại là một người bạn cũ của người thầy.

Đúng là : “ Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ ”, có duyên thì vạn dặm cũng gặp nhau..
Vị sư trưởng mời hai thầy trò vào thư phòng dùng trà, căn phòng tuy nhỏ nhưng trang nhã, trên tường treo những bức tranh thủy mạc và những bức thư họa.

Chủ khách cùng an tọa, vị Thầy giới thiệu cậu với sư trưởng. Vị trưởng lão ngắm nhìn cậu, rồi bảo : Cậu bé này thân tướng uy nghiêm, ngũ quan thật đầy đặn, má đầy như má sư tử , ắt hẳn là người chủ của tương lai.

Vị Thầy đáp lại : Hiền huynh quả là có cặp mắt thần quang ,và hai người cùng cười vang.

Tối hôm đó , Thầy hỏi cậu : Con có nhớ câu “ Nhân bất học , bất tri lý ’’ không ? , rồi thầy giảng rằng : Học với thầy đây là học ở trường đời và học để làm Người. Lý ở đây là cái lẽ tự nhiên của trời đất, rồi Thầy hỏi đến câu : “ Ngọc bất trác , bất thành khí ’’ và thầy giảng nghĩa : Con người ta phải rèn luyện thì mới trong sáng và mới giúp được đời, như hòn ngọc kia không đẽo gọt mài rũa , thì không thành của quý.

Sáng sớm hôm sau, thầy trò chào từ biệt vị sư trưởng để tiếp tục cuộc hành trình. Vừa đi, Thầy vừa giảng giải cho cậu : Đạo là gì ? “ Đạo nhược lộ nhiên, đắc kỳ môn nhi nhập ’’. Đạo như con đường đó , hễ gặp được cửa thì vào. Đạo là đạo tự nhiên của trời đất. Đức là gì ? Đức nằm trong Đạo . Đức là nhờ vật ấy mà thành hình….Cứ thế mỗi ngày, lời dạy của Thầy cứ như mưa dầm thấm lâu.

Hòn đá đen, trước cửa Đền Đá Đen

Một buổi, thầy bảo với cậu: Ngày mai ta sẽ vào đến rừng . Rừng xanh, ôi rừng xanh, đó là những từ mà cậu chỉ được đọc trong những cuốn sách , nay sẽ được theo chân thầy đến đó. Hẳn có bao điều lý thú… nhưng thầy lại dặn rằng : Bây giờ sẽ là những ngày gian khổ .

Hôm ấy, khi hai thầy trò vừa mới đến cửa rừng, thì gặp một ngôi đền nhỏ. Thầy bảo cậu : Chúng ta hãy vào lễ Bà chúa rừng . Ngôi đền đó dân quanh vùng gọi là đền Đá Đen . “ Đất có thổ công , sông có Hà bá, rừng cũng có Chủ ’’ và thầy chỉ cho cậu thấy ngọn núi cao vời phía xa kia , là nơi thầy trò ta sẽ tới.

Khỏi phải nói đến bao nỗi vất vả khi băng rừng , vượt núi . Khi khát thì thầy trò uống nước lâm tuyền, bụng đói thì kiếm quả rừng .Một buổi chiều tối, hai người dừng chân ở một hang núi . Thầy bảo cậu đi kiếm củi khô để nấu ăn . Ngồi bên đống lửa bập bùng trong rừng khuya vắng lặng , cậu thấy cuộc đời mình đã chuyển sang một trang mới . Có một sức mạnh huyền bí nào đó đang thấm dần vào cậu…

Bỗng thầy hỏi cậu : Con có biết tại sao ta lại đưa con đến chốn này không ? và thầy dạy : Người tu thân là rửa lòng nuôi đức , chứa nhóm tinh thần là cái tự lực bên trong . Giấu tích ẩn danh ,bặt dứt ồn ào là cái trợ duyên bên ngoài .Trong tâm , ngoài cảnh được vắng lặng thì cái thể tính chân như sẽ tự bày , rồi Thầy nói tiếp : Sớm mai ta sẽ đưa con lên đỉnh non Tản .

Không biết ngày ấy , vị Thầy đã đưa cậu lên bằng cách nào , nhưng sau này cụ Nguyễn Đức Cần có kể lại : Vào thời đó, chưa người nào có thể lên được đỉnh Mẫu , vì bên dưới là vách đá thẳng đứng , mà lạ lắm trên đỉnh có một bàn cờ tiên và có một giống cỏ mềm như tóc người . Cũng tại đó, Thầy đã truyền dạy cho cậu phép luyện thần nhãn . Phép hấp thụ dương quang này , mới đầu người học , tập nhìn không nheo mắt vào mặt trời lúc mới mọc , dần dần khổ công cho đến khi nhìn được mặt trời lúc chói chang và khi thần nhãn trông thấy rõ thế giới thanh khí, thì có thể gọi là thành công . Thầy bảo cậu : Con phải nhớ, nơi đây chính là linh khí của nước Việt .

Không biết có bao tháng ngày thầy trò họ sống cách biệt ở trên núi , nhưng đến một hôm , vị Thầy bảo cậu : Thôi thế là đủ , đã đến ngày Thầy trò ta xuống núi .

Họ ngược sông Đà để đến vùng Thác Bờ , Hòa Bình . Sông Đà bắt nguồn từ Vân Nam chảy qua Lai Châu , qua rất nhiều thác ghềnh , đến Sơn La thì sông uốn khúc , rồi lại chạy thẳng xuống Hòa Bình , đến đây lòng sông đã mở rộng và đỡ hung dữ hơn .

Hai thầy trò dừng chân ở vùng Chợ Bờ , Hòa Bình . Nơi đây có rất nhiều hang động sâu, nhiều tầng, thạch nhũ muôn hình lung linh soi bóng nước. Họ sống trên sông cùng những người đánh cá . Ở đây cậu học cách chèo thuyền , chống mảng làm quen với cuộc đời sông nước .

Đêm đêm , Thầy truyền cho cậu phép hấp thụ Tuệ quang . Thầy dạy : Trên trời có mặt trời, mặt trăng và muôn vàn tinh tú gọi là Văn. Dưới đất có núi , sông, gò , hốc gọi là Lý . Do vậy địa lý ứng với thiên văn .

Cứ như thế , vào những đêm trời quang , thầy trò nằm kiểm đếm các vì sao . Thầy dạy : có bẩy vị sao thất chính là Thái dương , Thái âm , sao Thủy , hỏa, mộc , kim , thổ , lại còn có nhị thập bát tú định vị ở bốn phương . Phương đông là chòm sao Thanh long có bẩy vị : Giác , Cang , Đê , Phòng , Tâm , Vĩ , Cơ . Phương nam là Chu tước có bẩy vị : Tỉnh , Quỷ, Liễu , Tinh ,Trương ,Dực, Chẩn . Phương Tây là Bạch hổ cũng có bẩy vị :Sâm, Chủy , Tất , Mão ,Vị, Lâu, Khuê . Phương bắc là Huyền Vũ có bẩy vị : Đẩu ,Ngưu ,Nữ , Hư, Nguy , Bích , Thất . Xem dải Ngân Hà , khi thấy có ngôi sao nào qua sông, ngôi sao nào mới mọc lên, ngôi nào sắp mất , thì ứng với điều gì ở chốn nhân gian.

Được Thầy tận lòng giảng giải như vậy , cậu càng thấy vũ trụ thật bao la và tâm trí cậu cảm thấy như được bay bổng cùng với trời mây.

Một hôm , thầy lại bảo cậu rằng : Chúng ta lại lên đường thôi.

Đứng ở phía chợ Bờ , nhìn về miền Tây bắc , cậu không ngờ rằng trên đỉnh của những dãy núi xa kia lại có những vùng bằng phẳng , những cao nguyên rộng lớn. Họ đi qua suối Rút , từ giã bản cuối cùng của Hòa Bình rồi leo đèo để lên cao nguyên Mộc Châu , ngày ấy toàn thấy một vùng cỏ tranh hoang vu , nhưng khí trời nơi đây thật mát mẻ , dễ chịu .

Năm 1895 tỉnh Vạn Bú được thành lập, tỉnh lỵ đặt tại Pá Giang bên bờ sông Đà. Đến năm 1904, người Pháp chuyển tỉnh lỵ về Sơn La và đổi tên tỉnh Vạn Bú thành tỉnh Sơn La. Đến Sơn La , thầy trò lại vượt đèo Pha Đin để sang Lai Châu .Có đến đây mới thấy cảnh núi non hùng vĩ , núi cao ngất trời , trùng trùng điệp điệp , các bản chiềng trở nên thưa thớt , xa xa thấp thoáng những nếp nhà sàn, cả ngày họ chẳng gặp một bóng người, ven đường những cây hoa trạng nguyên nở đầy hoa đỏ rực ,những bông hoa lau màu trắng bạc đung đưa như đang reo trong gió núi, mây ngàn in lên nền trời xanh thẳm, vẽ lên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp .

Thầy trò họ cứ đi mãi , đi mãi và sang đến vùng thượng Lào .

Sau này, cụ Nguyễn Đức Cần kể lại : Ngày ấy sang bên thượng Lào,trong rừng sâu , cụ có gặp một ngôi đền thiêng thờ Đức Lê Sơn thánh mẫu và cụ đã ở lại nơi đó tu một thời gian.

Không ai biết Thầy trò họ đã còn đi những nơi đâu ,và đã trải qua bao nhiêu mùa hoa Ban, hoa Mận ….

Đến một ngày kia , vị Thầy bảo cậu rằng : Đã đến lúc con phải trở về nhà, mẹ con đang mong nhớ từng ngày.

Cuộc chia tay thật là bịn rịn. Thầy dặn rằng: Nay con đã đủ sức tự lập , nhưng lúc nào khó khăn , ta vẫn ở bên con.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét